Một số hành vi thất thường của con trẻ đôi khi lại là dấu hiệu cho thấy trẻ có một tài năng nào đó. Ví dụ, nếu trẻ nhà bạn có 4 hành vi bất thường này trước 6 tuổi thì rất có thể con bạn sẽ là một "cao thủ toán học" trong tương lai. 1. Làm việc theo nguyên tắc TTO - Theo nguồn tin của Tuổi Trẻ Online, ông Nguyễn Tiến Thành - chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc Công ty CP Chứng khoán Tân Việt, thành viên HĐQT độc lập tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) - vừa qua đời, hưởng dương 50 tuổi. 10 năm đối với hành vi vi phạm đến mức 6 hành vi xấu ảnh hưởng tới IQ của trẻ 1. Ép trẻ học "vượt cấp". Nhiều cha mẹ mong muốn con chiến thắng từ vạch xuất phát đã ép trẻ học "vượt cấp". 2. Cho trẻ thức khuya. Sau khi trẻ kết thúc bài tập vào tối muộn, nhiều bố mẹ thưởng cho con sử dụng thiết bị điện tử để 3. Chỉ trích nỗ lực của con. Ở trẻ em và vị thành niên, nguy cơ của hành vi tự sát bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của các rối loạn tâm thần và các rối loạn khác ảnh hưởng đến não bộ, tiền sử gia đình, các yếu tố tâm lý xã hội và các yếu tố môi trường (xem bảng Các Yếu tố Nguy cơ Đối với Hành vi Tự sát ở Trẻ em và Thanh thiếu niên ). Bảng Hành vi của trẻ thay đổi Nếu bé vẫn không chịu lắng nghe những gì bạn nói, có lẽ đó là thời gian bạn nên thay đổi cách tiếp cận khác. Có lẽ bạn đang quá nghiêm khắc và khó khăn cho bé, cho bé quá nhiều sự chỉ dẫn qua lời nói hoặc thậm chí không tin vào phương pháp của riêng bạn. D2hSoCe. 8 vấn đề hành vi thường gặp ở trẻ Thông thường, trẻ làm ngược lại với những điều mà bạn quy định và cho rằng như vậy là đúng. 1. Không tôn trọng và cãi lời người lớn Một đứa bé ba tuổi cãi lời bạn có vẻ buồn cười và đáng yêu. Tuy nhiên, nếu đứa trẻ 7 tuổi luôn hét lên là “không” với những điều bạn nói thì thật đáng lo ngại. Nếu bạn không xử lý đúng cách, việc cãi lời có thể dẫn đến tranh cãi giữa bố mẹ và con cái. Những cách sau đây hiệu quả để dạy dỗ bé yêu. Nếu trẻ cãi lại nhưng vẫn làm theo yêu cầu của bạn hoặc trẻ không phá hoại, lúc này, bạn có thể suy nghĩ và bỏ qua lỗi lầm cho trẻ. Nếu trẻ làm theo những điều bạn yêu cầu nhưng vẫn cãi lời, lúc này, bạn nên xem xét điều trẻ nói có đúng không hay những hành vi bé làm có gây ảnh hưởng gì không. Bên cạnh đó, bạn cũng nên giải thích rằng trẻ có thể tức giận nhưng không được nói chuyện thiếu tôn trọng với bạn. Nếu phản ứng của trẻ làm ảnh hưởng người khác hay bản thân chúng, bạn cần chú ý kỹ. Bạn không nên phản ứng dữ dội với biểu hiện bất thường của trẻ. Chờ trẻ bình tĩnh, bạn nói chuyện về hành vi của trẻ, giải thích hành động nào có thể chấp nhận, hành động nào không? Cho trẻ biết đến những hậu quả có thể xảy ra về hành vi đó. Đừng đe dọa trẻ mà hãy phạt bằng cách không được ăn kem hay xem phim. Xem lại cách cư xử của bạn và mọi người xung quanh với bé. Nếu bạn cũng thô lỗ, thiếu tôn trọng người khác, hãy thay đổi chính mình. 2. Trẻ chửi tục Trẻ em thường la hét khi chúng giận nhưng nếu trẻ chửi thề trước 10 tuổi, bạn nên quan tâm hơn về điều này. Khi trẻ chửi thề, bạn nên lưu ý những điều sau đây Không được chửi thề trước mặt trẻ. Không bỏ qua việc bé chửi thề, tìm hiểu tại sao con lại biết điều này. Giải thích cho bé biết việc chửi thề là không tốt. Nếu bạn cũng sử dụng những từ ngữ không hay này trước mặt trẻ, hãy xin lỗi trẻ vì mình đã lỡ miệng. 3. Có hành vi hung hăng và bạo lực Khi tức giận, trẻ hung hăng là bình thường. Rối loạn tâm trạng, tâm lý, hành vi, chấn thương, bốc đồng hoặc thất vọng có thể dẫn đến sự gây hấn ở trẻ. Đôi khi trẻ có thể sử dụng bạo lực để bảo vệ mình. Tuy nhiên, trẻ có thể học cách bạo lực ở trường hay ở nhà. Nếu con có những hành vi tiêu cực như đánh, cắn, đá, bạn hãy thưc hiện những điều sau đây Bạn hạ giọng và bình tĩnh nói chuyện với bé. Nói rõ với bé hành động như đánh, đá hay cắn là những hành vi không đúng, dẫn đến hậu quả gì và bé nên làm gì thay vì thể hiện sự tức giận. Ví dụ, bé nói “Con tức giận” thay vì “Con không thích nó” hay “Con cảm thấy không vui vì điều đó”. Điều quan trọng là bố mẹ phải là một tấm gương tốt cho con. Ngoài ra, bạn cũng nên khen hành vi tích cực và phê bình hành vi không tốt của con. 4. Nói dối Trẻ nhỏ hay nói dối cũng là nỗi lo của bố mẹ. Bạn có thể cảm thấy bị lừa dối và đau lòng, thậm chí là không tin bé nữa. Lúc này, điều bạn cần làm là Tìm hiểu xem tại sao trẻ nói dối. Có thể do sợ bị bố mẹ la mắng về việc gì đó nên đã nói dối để che giấu sự thật. Nếu vậy, bạn khuyến khích trẻ bày tỏ mong muốn của mình cho bố mẹ biết, thay vì nói dối để che giấu. Dạy bé thành thật và bạn hãy là tấm gương tốt cho bé. 5. Bắt nạt bạn bè Bắt nạt bạn bè là một vấn đề nghiêm trọng, có thể ảnh hưởng đến tình cảm và thể chất của người khác. Trẻ thường có xu hướng bắt nạt người khác để chứng tỏ mình mạnh mẽ. Khi thấy con bắt nạt người khác, bạn hãy Dạy cho trẻ biết rằng bắt nạt người khác là không tốt. Bạn cho bé biết thế nào là bắt nạt người khác, tức là bắt người khác làm việc gì đó cho mình, dùng bạo lực lấy tài sản của người khác. Đặt ra những quy tắc trong nhà, viết những câu như “Không được bắt nạt trong nhà” hoặc “Con không được cư xử như vậy trong nhà”. Quan sát để phát hiện sớm dấu hiệu bắt nạt bạn của trẻ. Khi thấy con đang bắt nạt bạn mình, bạn hãy sửa hành vi đó ngay lúc đó. 6. Vòi vĩnh Trẻ có xu hướng bạo lực, khóc để đạt được điều mình muốn. Nếu chiều theo hành vi xấu này, bạn chỉ khiến trẻ cảm thấy điều mình làm là đúng. Ví dụ, trẻ bực tức chỉ vì bạn không mua kẹo hay đồ chơi. Khi trẻ la khóc, bạn nghĩ lại mua kẹo cho trẻ chỉ để làm hạ cơn giận, vô tình bạn đã nuông chiều trẻ không đúng cách. Tóm lại, khi bé vòi vĩnh, bạn kiên quyết không chiều theo ý bé mà giải thích cho bé rõ để không trở thành cuộc chiến. 7. Thiếu động lực, lười biếng Dù là tập thể dục ở trường, tham gia văn nghệ hay chơi đùa với bạn bè, bé đều từ chối tham gia. Để giúp con có động lực, bạn hãy Khuyến khích bé bằng cách kể chuyện lúc nhỏ của bạn để chia sẻ kinh nghiệm và truyền cảm hứng cho bé. Đừng ép buộc trẻ phải có sở thích nào mà hãy để bé tự lựa chọn. Điều này sẽ giúp trẻ hứng thú hơn với điều chúng chọn. Bạn có đang ép trẻ làm điều gì đó không? Bạn có hỏi bé thích điều gì chưa? Hãy quan sát để biết bé thích gì từ đó tạo động lực cho bé. 8. Gặp vấn đề trong cư xử ở trường Mỗi buổi sáng, trẻ đều nói “Con không muốn đi học”. Trẻ thường từ chối đi học với những lý do như bị bắt nạt, làm bài tập, không muốn xa bố mẹ, không thích tuân theo quy định của trường lớp hay lo lắng. Việc bạn cần làm là Tìm ra nguyên nhân tại sao con không thích học và làm bài tập. Sau khi biết được nguyên nhân, bạn có thể đến trường giúp con tìm cách xử lý. Ví dụ con bị bắt nạt, bạn dẫn con đến gặp người bạn hay bắt nạt để nói chuyện. Nếu tình hình không cải thiện, bạn có thể nhờ cô giáo hỗ trợ. Bạn nên khuyến khích bé học tập, dạy cho bé những bài tập khó, nhưng không nên treo thưởng để bé học. Khi tình trạng không thích đến trường của con không cải thiện, bạn có thể nhờ chuyên gia tâm lý, bác sĩ giúp. Những chứng rối loạn ở trẻ Đôi khi những hành vi bất thường của trẻ có thể là triệu chứng rối loạn hành vi. Dưới đây là một số chứng rối loạn hành vi thường gặp ở trẻ. 1. Rối loạn thách thức chống đối ODD Rối loạn thách thức chống đối là một hành vi gây hại phổ biến ảnh hưởng đến trẻ. Triệu chứng của ODD là tức giận, bùng phát những cơn thịnh nộ, thường xuyên giận dữ, chống lại quy tắc, quấy rầy người khác, đổ lỗi cho người khác về lỗi lầm của mình. 2. Rối loạn xử lý cảm giác CD Những trẻ mắc chứng rối loạn xử lý cảm giác thường có hành vi gian lận và không tuân theo quy tắc. Ở Mỹ, có khoảng 5% trẻ em dưới 10 tuổi mắc chứng rối loạn này. Những hành vi của chứng rối loạn xử lý cảm giác là không tuân theo quy tắc bố mẹ hay nhà trường đưa ra, thường xuyên trốn học, lạm dụng rượu, thuốc lá, ma túy khi còn nhỏ, hiếu chiến, đánh đập vật nuôi, sử dụng vũ khí, hay nói dối, thích làm những hành vi phạm tội như trộm cắp, đốt tài sản, đột nhập vào nhà người khác, bỏ nhà, có xu hướng tự tử rất hiếm. 3. Rối loạn tăng động giảm chú ý ADHD Chứng rối loạn tăng động giảm chú ý có liên quan đến hành vi tập trung, bốc đồng ở trẻ, biểu hiện là khó tập trung vào một vấn đề, không định hướng được khi nói chuyện với trẻ, khó nhớ kiến thức học ở trường hay lời hướng dẫn, khó tập trung vào chi tiết. 4. Rối loạn nhân cách Trẻ mắc chứng rối loạn nhân cách thường trở nên thờ ơ với vấn đề của người khác. Chứng rối loạn này thường trở nên trầm trọng hơn khi lớn tuổi, dẫn đến các hoạt động phi pháp và phi đạo đức. 5. Không phát triển kỹ năng xã hội Triệu chứng của việc không phát triển kỹ năng xã hội là trẻ rất khó khăn khi bắt chuyện cũng như tương tác với người khác. Chứng rối loạn hành vi ở trẻ biểu hiện rõ hơn khi trẻ lớn lên. Giúp trẻ năng động để cải thiện hành vi Để giải quyết hiệu quả những vấn đề hành vi ở trẻ, bạn cho trẻ tham gia các hoạt động như Tập thể dục Việc đưa trẻ ra ngoài công viên tập thể dục hoặc chơi vào mỗi buổi sáng có thể giúp bé cảm thấy thoải mái hơn. Nếu không giúp giải tỏa tâm lý đúng cách, trẻ có thể tìm cách giải tỏa như cáu giận hay phá hoại. Cho bé đọc to một quyển sách phù hợp với tuổi của bé, hay đọc những gì mà chúng viết. Kể một hoạt động thu hút trí tưởng tượng của bé. Điều này giúp bé sử dụng năng lượng hợp lý và tâm trạng bé cũng tốt hơn. Chơi các trò chơi lành mạnh hay đọc sách giáo dục về những việc làm tốt như giúp đỡ người khác, biết chia sẻ, xin lỗi khi làm việc gì không đúng hay cảm ơn khi được người khác cho đồ hay giúp đỡ. 1. Quan niệm về hành vi bất thường của trẻ CPTTTThế nào là hành vi bất bình thường? đó là một vấn đề cần phải xác định thật rõ ràng và chính xác về mặt khoa học. Thực tế, đã có rất nhiều thay đổi về định nghĩa “hành vi bất bình thường”. Tuy nhiên các nhà tâm lý đã đưa ra một số giải thích về vấn đề này như sau Hành viđược xem là bất thường khi lệch khỏi mức trung bình. Đây là sự giải thích mang đậm màu sắc thống kê. Nhằm mục đích xác định tính bất bình thường, người ta chỉ cần quan sát những hành vi nào hiếm khi xảy ra trong một xã hội hay một nền văn hoá nhất định, rồi gán cho các trường hợp lệch khỏi chuẩn mực là bất bình thường. Định nghĩa này có thể đúng trong một số trường hợp nhưng nhìn chung nếu coi đó là một tiêu chí để xác định hành vi bất thường thì chưa hợp lý. Ví dụ, nếu tất cả mọi trẻ đều uống nước cam sau bữa ăn và có một trẻ nào đó lại thích uống chè thì không thể coi đó là bất thường được. Tương tự, một khái niệm như vậy về tình trạng bất thường sẽ gán ghép bất hợp lý một người có điểm số IQ cao lạ thường là người bất thường, đơn giản chỉ vì người này hiếm thấy về mặt thống Lệch khỏi mức lý tưởngTheo định nghĩa này, hành vi được xem là bất thường nếu như nó lệch khỏi một mức lý tưởng hay tiêu chuẩn nào đó. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay có quá ít tiêu chuẩn mà tất cả mọi người đều đồng lòng tán thành. Hơn nữa các tiêu chuẩn nổi bật lại thường biến đổi theo thời gian, khiến cho việc xác định khi nào thì lệch khỏi mức lý tưởng trở nên thiếu chính xác. Ngày nay con người thường đặt ra rất nhiều tiêu chuẩn về mức độ lý tưởng, đặc biệt là các bậc cha mẹ, họ luôn đặt ra cho con mình những mức độ cần đạt được và tất cả những hành vi của trẻ khác với tiêu chuẩn mà họ đặt ra đều được coi là bất bình Bất thường là thiếu khả năng hành xử hữu hiệuHầu hết con người được sinh ra và lớn lên đều trở thành những thành viên hữu dụng trong xã hội, có đủ sức thích nghi với các nhu cầu của xã hội hoặc có khả năng hành xử hữu hiệu. Như vậy, với một một đứa trẻ được xem là có những hành vi bất thường khi nó không thể đáp ứng được những yêu cầu các nhà nghiên cứu về sự phát triển của trẻ CPTTT thì việc xác định những hành vi bất thường ở trẻ dựa trên những tiêu chí– Biểu hiện qua vận động của cơ thể– Biểu hiện bằng sự im lặng– Biểu hiện bằng âm thanh lời nóiHành vi bất thường ở trẻ CPTTT gồm 2 loạiHành vi hướng nội có nghĩa là trẻ sống thu mình, ít giao tiếp và đôi khi còn tự xâm hại cơ vi hướng ngoại hung hãn, có hành vi trái ngược, giảm chú ý và dễ kích quá trình phát triển ở trẻ CPTTT thường xuất hiện một số hành vi không bình thường. Những hành vi bất thường của trẻ không những đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của chính bản thân đứa trẻ mà còn là mối lo ngại thực sự đối với cha mẹ và các nhà sư phạm. Các nhà tâm lý-giáo dục đang hết sức quan tâm, họ đang cố gắng tìm ra những biện pháp điều chỉnh những hành vi của trẻ. Ở nước ngoài, vấn đề hành vi của trẻ được quan tâm rất sớm. Ở Trung Quốc, năm 1981 theo điều tra của Trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ em Nam Kinh đối với các trẻ em sống tại Thành phố Nam Kinh, người ta đã phát hiện, trong trở ngại về hành vi của trẻ em, vấn đề ăn uống chiếm 36,1%, vấn đề về tinh thần chiếm 19,8%, dễ kích động chiếm 16,8%, khó khăn trong học tập và tập trung sự chú ý chiếm 11,4%. Ngoài ra còn một số trở ngại khác như tính hung hãn, sự co mình, rối loạn ngôn cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể. Các vấn đề về hành vi của trẻ em ngày nay đang được xã hội đặc biệt chú ý, nhất là đối tượng trẻ em chậm phát kỳ sơ sinh trẻ thường hay mút đầu ngón tay, lớn hơn một chút trẻ thường gặm móng tay, đó là những biểu hiện bình thường thuộc phản xạ bản năng nguyên thuỷ và trẻ sẽ mút bất cứ vật thể gì mà môi có thể chạm được, nhất là khi đói trẻ có thể cho tay của mình vào miệng, ước tính có khoảng 90% trẻ ấu thơ có biểu hiện trên và người ta cho rằng những hành vi này là bình thường. Khi trẻ được 2,3 tuổi, lứa tuổi có nhiều sự biến đổi về mặt tâm sinh lý như ngôn ngữ phát triển mạnh, năng lực sống độc lập tăng dần và những hiện tượng trên cũng dần dần biến mất. Nhưng một số trẻ vẫn duy trì loại hành vi này, khi đói khát hay trong tình trạng tinh thần rối loạn…trẻ không những mút ngón tay mà còn gặm bất cứ vật gì xung quanh như quần áo, những đồ dùng hằng ngày khác, từ đó dần dần hình thành thói quen và rất khó thay đổi, đôi khi trở thành một “dạng tật”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, ở một số trẻ khi có những hành vi như vậy đôi khi cũng là một cách làm cho trẻ cảm thấy thích thú, bớt căng thẳng hơn và thậm chí rất dễ vi bất thường ở trẻ còn biểu hiện ở chỗ trẻ luôn sống co mình, tránh giao tiếp với mọi người xung quanh. Đây là hiện tượng thường gặp ở lứa tuổi mẫu giáo và thường tăng lên theo độ tuổi. Phần lớn trẻ em đều có thể sống với nhau hoà đồng, nhưng có một số trẻ nhút nhát khi tiếp xúc với người khác, có biểu hiện co lại, sợ sệt ở những mức độ khác nhau. Trẻ có hành vi co lại thường rất khó thích nghi với hoàn cảnh mới, không muốn đến nơi lạ, sợ đi dạo trong công viên, đến rạp chiếu phim, theo cha mẹ đi chơi…Trẻ không chủ động trong giao tiếp với người khác nên có rất ít bạn bè cùng tuổi. Trẻ trở nên trầm mặc ít nói, sợ phải giao tiếp với người khác, trẻ không có đủ tự tin khi giải quyết công việc của mình, ngoài ra trẻ còn có những biểu hiện như không biết nhận sự giúp đỡ của người khác, không biết đón nhận lời khen cũng như vô cảm trước sự chê trách. Chính vì khó khăn trong giao tiếp nên trẻ rất khó có thể hiểu được người khác và ngược lại những hành vi bất thường của trẻ luôn làm cho mọi người xung quanh có cảm giác khó chịu, hoặc chê cười, và gần như không tin tưởng vào khả năng của vi kích động cũng là một trong những hành vi thường gặp ở trẻ có vấn đề sự rối loạn trong quá trình phát triển. Biểu hiện rõ nét nhất là trẻ lập tức gào thét và đập phá hoặc tự làm tổn hại đến thân thể của chính mình như đập đầu vào tường, bứt tóc, cào mặt… trẻ rất dễ nổi giận, đôi khi lại tỏ ra bướng bỉnh. Đối với những hành vi quá kích này thường đem lại những hậu quả đáng lo ngại, bởi vì trẻ không làm chủ được bản thân, không có ý thức về những hành vi của mình trẻ sẽ rất dễ bị tổn cả những biểu hiện về hành vi bất thường ở trẻ cần phải được điều chỉnh kịp thời và đòi hỏi phải có thời gian rèn luyện. Loại hành vi này nếu không được uốn nắn sẽ gây khó khăn nghiêm trọng cho việc thích ứng xã hội, nếu kéo dài có thể hình thành ở trẻ những hành vi bạo lực, hành vi có tính tiêu cực sẽ làm cho trẻ mất đi cơ hội phát triển, trở thành một người không trưởng biểu hiện hành vi có vấn đề thường thấy ở trẻ CPTTTHành vi bất thường của trẻ CPTTT được xác định dựa trên những tiêu chí sauBiểu hiện qua vận động các bộ phận cơ thể– Trẻ đi lại, ra vào tự do trong lớp– Khi không vừa ý, trẻ có thể đấm đá, xô đẩy hoặc ăn vạ.– Ngồi không yên, gật gù, lắc người, vận động tay chân liên tục– Trẻ có thể đạp phá đồ đạc khi chơi– Trẻ có thể vệ sinh không đúng nơi– Trẻ từ chối sự chăm sóc, vỗ về của người khác bằng cách lẩn hiện bằng sự im lặng– Trẻ ngồi uể oải, buồn chán, im lặng– Không nói chuyện với bạn bè, người xung quanh.– Không thực hiện nhiệm vụ– Không phản ứng lại thậm chí khi bị trêu trọcBiểu hiện bằng âm thanh, lời nói– Trẻ nói tự do trong giờ học.– Trẻ có thể la hét, gào thét không rõ nguyên nhân– Trẻ có thể lẩm bẩm một mình– Trẻ có thể khóc hoặc hờn dỗi2. Các biện pháp quản lý hành vi của trẻ Giúp trẻ hành thành và phát triển các hành vi trong mong muốnKhi đến lớp, trẻ học thêm được những hành vi tốt ngoài những gì chúng đã có từ trước. Đó có thể là những hành vi học tập, hành vi cá nhân và giao tiếp xã củng cố các hành vi tốt, giáo viên có thể sử dụng bất kì sự kiện nào có khả năng tăng cường hành vi vừa xảy ra. Có thể sử dụng cố tích cực, nghĩa là giáo viên hay bạn bè thể hiện sự hài lòng và vui vẻ khi trẻ thực hiện được một hành vi thích hợp. Củng cố tích cực có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau như khen ngợi, phần thưởng cụ thể, hay dành cho trẻ một hoạt động mà trẻ thích hoặc có những ưu tiên đặc biệt. Củng cố tiêu cực là loại bỏ hoặc không bắt trẻ làm điều gì chúng cảm thấy khó chịu hoặc không yêu thích khi chúng thực hiện được một hành vi phù hợp, ví dụ trẻ đồng ý vào nhà tắm để tắm sau đó trẻ không phải uống thuốc. Củng cố là hình thức được chấp nhận rộng rãi và là một chiến thuật có hiệu quả trong việc tăng cường các hành vi phù hợp mà ta mong đợi ở sử dụng củng cố tích cực để tăng cường các hành vi phù hợp của trẻ giáo viên phải chú ý làm sao để trẻ cảm thấy thích nhân tố củng cố và hiểu rằng cái mình nhận được là kết quả của hành vi mà mình vừa thực hiện, và mình sẽ sớm nhận được nó sau khi thực hiện đúng điều giáo viên yêu trong những cách sử dụng nguyên tắc củng cố tích cực là dùng một văn bản gọi là “Biên bản thoả thuận giữa giáo viên và học sinh”, cách này đặc biệt phù hợp đối với những trẻ lớn. Giáo viên và học sinh cùng thảo một bản thoả thuận, trong đó giáo viên nói rõ các hành vi hay nhiệm vụ và học sinh mà trẻ phải hoàn thành hoặc thực hiện được và những phản hồi sự củng cố giáo viên sẽ đưa ra. Việc thực hiện bản thoả thuận này là bắt buộc đối với giáo viên và học Biên bản thoả thuận giữa giáo viên và học sinh Biên bản thoả thuận Ngày ………. tháng ……….. năm …………Em ……………………………………… tên của học sinh sẽ thực hiện những điều sau đây;1. Đi học đúng Hoàn thành tất cả các bài tập được giao ở Khi muốn được giúp đỡ phải giơ tay để thu hút sự chú ý của thầy/cô giáo ……………………….. tên của giáo viên sẽ có những hình thức củng cố dưới đây;1. Nếu em hoàn thành1 trong 03 điều trên, em sẽ nhận được 10 sao. Sao thưởng cho việc hoàn thành nhiệm vụ thứ nhất sẽ được giao lúc đầu giờ học. Sao thưởng cho viện hoàn thành nhiệm vụ thứ 2 và thứ 3 sẽ được giao lúc cuối buổi Các sao có thể được dùng để đổi lấy một hoạt động ưa thích vào chiều thứ sau. Chữ ký của học sinh Chữ ký của giáo viên ……………………………… ………………………………Một số gợi ý cho kỹ thuật củng cố• Xác định xem cái gì có giá trị củng cố thực sự đối với trẻ• Chọn những hình thức củng cố dễ thực hiện và thực tế trong điều kiện của lớp học• Nắm bắt ngay thời điểm trẻ có hành vi thích hợp rồi khen hoặc củng cố ngay• Sử dụng một số kỹ thuật củng cố để dần dần hướng cho hành vi của trẻ giống với hành vi mẫu• Khuyến khích trẻ khác cùng lớp để cho trẻ thấy rằng một số hành vi tích cực sẽ dẫn đến kết quả đáng khích lệ được thưởng. Giảm thiểu hành vi không mong muốn của trẻHầu hết các giáo viên đều sẽ gặp phải những hành vi không mong muốn ở trẻ. Để xử lí những hành vi này giáo viên cần chú ý đến nguyên tắc “tối thiểu hoá sự can thiệp”.Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các hành vi gây rối được loại trừ nhanh gọn mà các hoạt động của lớp học ít bị ảnh hưởng Phòng ngừa và nhắc nhởGiáo viên có thể sử dụng các cách khác nhau để phòng ngừa hoặc nhắc trẻ không có hành vi sai phạm như– Đứng gần những trẻ hay gây rối;– Nhẹ nhàng chạm tay vào vai trẻ để báo hiệu cho trẻ rằng mình biết là trẻ đang có hành vi không thích hợp;– Sử dụng các cử chỉ thể hiện trực tiếp hoặc không trực tiếp sự không hài lòng của mình với trẻ để ngăn chặn các hành vi không mong muốn, ví dụ như chỉ tay, lắc đầu, hoặc những dấu hiệu khác;– Đưa mắt nhìn trẻ có hành vi không thích hợp, duy trì trong một khoảng thời gian nhất định;– Nếu đang nói thì dừng lại trong một khoảng thời gian nhất định để thu hút sự chú ý của trẻ;– Gọi tên những trẻ không tập trung, và đặt câu hỏi mà trẻ có thể trả lời được, hoặc dùng tên của trẻ để minh hoạ cho những điều đang nói đến trong bài học;– Nên vui vẻ, hài hước khi nhắc nhở và chấn chỉnh những hành vi không thích hợp. Nói chung, giáo viên có thể lựa chọn nhiều hình thức khác nhau để nhắc học sinh, nhưng hãy bắt đầu bằng những biện pháp can thiệp ít mang tính xâm phạm nhất. Tuy nhiên, việc lựa chon hình thức nào còn phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi do trẻ gây Một số cách xử lí khi trẻ có hành vi gây rối* Khi trẻ có hành vi gây rối nhưng mức độ không nghiêm trọng, giáo viên có thể xử lí theo những cách dưới đây Dập tắt là giáo viên không củng cố một hành vi nào đó. Dần dần, với việc không củng cố hành vi đó, kết hợp với củng cố tích cực cho các hành vi mong muốn có liên quan, giáo viên sẽ giúp trẻ laọi bỏ được các hành vi không thích hợp. Ví dụ trẻ có mọt hành vi không hợp lý nào đó nhằm thu hút sự chú ý của giáo viên, giáo viên không nên tỏ ra chú ý đến hành vi đó. Trong một số tình huống, giáo viên nên để các trẻ khác trong lớp cùng tham gia quá trình dập tắt hành trách là giáo viên dùng lời để trách trẻ. Khi áp dụng hình phạt này cần lưu ý không để việc khiển trách chiếm ưu thế trong mối quan hệ qua lại với trẻ, nhìn vào học sinh và nói với thái độ bình tĩnh, không đứng từ xa để khiển trách học sinh, nên tiến lại gần trẻ và duy trì một mức độ gần nhất định. Cần để trẻ biết rõ tại sao lại bị khiển trách và giúp trẻ hiểu rằng chúng bị khiển trách về hành vi chứ không phải là cả bản thân là sự lựa chọn cuối cùng bởi vì nó liên quan đến việc đưa ra một điều không ưu thích cho trẻ hoặc lấy đi một điều gì đó trẻ ưu thích, coi như là hậu quả của một hành vi không thích hợp. Trong nhiều trường hợp giáo viên phải xem xét việc sử dụng phương pháp này bởi cách thức phạt khác nhau có thể giúp loại bỏ ngay lập tức một hành vi không mong muốn nào đó. Có thể phạt học sinh theo ba cách thông thường như khiển trách, thời gian tách biệt, và trẻ giá hành vi. Để có thể phát huy tác động của các hình thức phạt này, giáo viên phải áp dụng chúng ngay sau khi học sinh thể hiện hành vi không thích hợp và giúp chúng hiểu được tại sao mình lại bị phạt. Có thể phạt theo các mức độ sau nhân quả, thời gian tách biệt, trả giá hành vi.– Nhân quả cách này áp dụng trong những tính huống khi có sự phù hợp logic giữa các hành vi trẻ gây nên với hậu quả mà trẻ phải chịu. Cách làm này giúp trẻ và thanh thiếu niên CPTTT có ý thức trách nhiệm hơn đối với các hành vi của mình. Ví dụ nếu trẻ quên không đem hộp bút mầu thì hậu quả tự nhiên là trẻ không được tham gia vào hoạt động, nếu trẻ quên mang thước kẻ trẻ sẽ phải đi mượn một bạn khác.– Thời gian tách biệt là trẻ không được tham gia vào một hoạt động nào đó mà ở đó trẻ thường nhận được củng cố tích cực. Điều này có nghĩa là khi bị phạt bằng thời gian tách biệt, trẻ sẽ không được thưởng thức một cái gì đó mà trẻ yêu thích. Có nhiều cách phạt bằng thời gian tách biệt như trẻ phải ngồi tách ra song vẫn được quan sát hoạt động đó, trẻ bị tách hoàn toàn ra khỏi hoạt động, trẻ bị nhốt trong một phòng riêng. Khi áp dụng hình thức phạt này giáo viên cần lưu ýChắc chắn rằng trẻ yêu thích hoạt động đang tiến hành, nếu không cách phạt này sẽ không còn tác dụng như một hình phạt mà thậm chí có thể trở thành một dạng củng cố tiêu bảo địa điểm phạt không có những yếu tố mang tính củng cố, nếu không, hình phạt này mất tác phạt trẻ quá lâu hoặc phạt một cách thường xuyên vì trẻ sẽ bị bỏ lỡ nhiều phần kiến thức quan xem xét việc sử dụng phương pháp phạt này sau khi đã cảnh cáo trẻ về khả năng có thể bị phạt bằng thời gian tách hiệu cho trẻ biết khi thời gian phạt đã trẻ được phép tham gia trở lại hoạt động với cả lớp hay cả nhóm, hỏi trẻ xem trẻ có biết lý do tại sao mình lại bị phạt không, nếu trẻ trả lời không, hãy giải thích lí do trẻ vào một thời điểm thích hợp mà không làm ảnh hưởng đến bài nên áp dụng hình thức phạt này với những trẻ có tính nhạy cảm caoKhi cần nên thông báo và xin phép nhà trường để được áp dụng hình thức này.– Trả giá hành vi là lấy đi của trẻ một cái gì đó mà trẻ yêu thích chẳng hạn như điểm thi đua hoặc một ưu điểm nào đó. Khi áp dụng phương pháp này phải lưu ýGiải thích rõ cho trẻ biết nội dung của hình thức phạt là gì và mỗi lần phạt như vậy trẻ sẽ bị lấy đi những hợp hình thức phạt theo kiểu này với một hình thức củng cố nào đó. Đảm bảo rằng những quyền lợi bị tước mất là thực sự mang tính củng cố đối với trường hợp sau khi bị phạt, trẻ không còn hoặc còn rất ít yếu tố thúc đẩy để đưa ra các hành vi đúng cố khi có sự giảm bớt tính thường xuyên của một hành vi không mong muốnGiáo viên nên củng cố thích hợp khi trẻ đạt được một tiêu chí nào đó về tần số của một hành vi nhất định, cho dù hành vi đó là hành vi không mong muốn. Với cách xử lí này, giáo viên cần giúp học sinh giảm các hành vi không mong muốn cả về tần số và thời dụ một trẻ AD/HD thường hay ngắt lời khi bạn đang phát biểu, hôm nay em ít ngắt lời các bạn hơn vì vậy em nhận được củng cố tích cực. Giáo viên có thể khen trẻ khi trong một thời gian nhất định trẻ chỉ vi phạm có 5 lần chứ không phải 10 lần như mọi khi, giáo viên có thể nói “Con giỏi lắm, hôm nay con rất chăm chú lắng nghe các bạn phát biểu”. Thực tế hành vi gây rối của trẻ vẫn còn và phải được châm chước cho đến tận khi trẻ đạt được hành vi chuẩn. Giáo viên phải tăng dần yêu cầu đối với trẻ khi thấy chúng đã đạt được sự ổn định về hành vi so với yêu cầu hiện tại* Trong trường hợp xảy ra những hành vi nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như tranh giành đồ dùng của bạn, trêu chọc bạn, chửi thề, giận dữ, đe dọa bạn… giáo viên cần sử dụng những biện pháp quản lý hành vi ở mức độ cao xác định một hành vi là nghiêm trọng giáo viên cần tìm hiểu đặc điểm mức độ và độ thường xuyên của hành vi đó. Đánh giá chính xác là cơ sở để tìm ra những biện pháp xử lý hiệu quả và tích cực. Giáo viên có thể đánh giá trẻ nhằm tìm ra các yếu tố tiền hành vi dẫn đến hành vi, các yếu tố hậu hành vi hậu quả của hành vi và yếu tố duy trì hành hành vi có vấn đề xảy ra nhằm phục vụ một nhu cầu, hay ý định cụ thể nào đó của trẻ, nghĩa là hành vi đó như một phương pháp hay giao tiếp của trẻ với môi thể khái quát thành bốn dạng hành vi sau– Gây chú ý trẻ gây ra hành vi ấy là để thu hút sự chú ý của người khác– Trốn chạy nhờ có hành vi ấy mà trẻ sẽ thoát khỏi một tình huống nó không thích, ví dụ như trẻ tự kỷ có gắng thoát khỏi một hoạt động tập thể nào đó bằng cách nổi cơn giận dữ, khiến giáo viên phải phạt trẻ bằng thời gian tách biệt.– Đạt được một cái gì đó rất cụ thể hành vi của trẻ dẫn đến giáo viên sẽ thưởng cho trẻ một đồ vật hay hoạt động nào đó, ví dụ trẻ bắt đầu hét lên cho đến lúc nó lấy được đồ dùng giảng dạy của giáo viên mà nó muốn.– Phản hồi bằng các giác quan hành vi của trẻ nhằm đạt được những kích thích về thính giác, thị giác, hoặc xúc giác cho bản viên có thể sử dụng bảng quan sát để xác định chính xác mục đích của hànhvi. Bảng này gồm yếu tố tiền hành vi A, hành vi B, hậu hành vi CBảng quan sát hành viNgoài ra giáo viên còn có thể sử dụng bảng giao tiếp chức năng dưới đây để tìm cách phản ứng hợp lý với trẻBảng Bảng giao tiếp chức năngThực tế cho thấy nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi có vấn đền là rất rộng, đa dạng và đặc biệt như chính bản thân mỗi trẻ; do vậy xác định chức năng của từng hành vi là rất khó khăn. Để có thể hiểu rõ hơn về nguyên nhân của các hành vi có vấn đề ở trẻ, các chuyên gia và giáo viên cần theo dõi những yếu tố có thể dẫn đến hành vi có vấn đề một cách hệ xác định được chức năng của một hành vi gây rối nào đó, giáo viên cần cung cấp và hướng dẫn cho trẻ phương pháp giao tiếp thích hợp hơn để thực hiện cùng một ý muốn. Giáo viên có thể đưa ra những quyển vốc dán các tranh biểu tượng để giúp trẻ không có khả năng giao tiếp bằng lời thể hiện nhu cầu của mình, ví dụ khi trẻ muốn ra ngoài em không phải tự đánh vào đầu mình nữa mà có thể chỉ vào tranh để thể hiện mình muốn ra tế cho thấy nguyên nhân dẫn đến những hành vi không mong muốn là rất đa dạng và phức tạp như chính bản thân mỗi trẻ, do vậy xác định chức năng của từng hành vi là rất khó khăn. Để ngăn chặn và giảm thiểu hành vi có vấn đề, giáo viên cần theo dõi những yếu tố có thể dẫn đến các hành vi đó một cách có hệ thống. Đánh giá chính xác nguyên nhân dẫn dến hành vi là cơ sở để giáo viên có biện pháp phòng ngừa và xử lý hành vi của trẻ hiệu quả và tích lại Giáo viên có thể lựa chọn nhiều biện pháp khác nhau để xử lý hành vi không mong muốn của trẻ nhưng hãy bắt đầu bằng những biện pháp xử lý nhẹ nhất. Mặt khác, việc lựa chọn biện pháp xử lý nào phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi do trẻ gây ra. Mục tiêu cuối cùng là dạy trẻ kiểm soát được các hành vi của mình mà không cần hoặc cần ít nhất sự hỗ trợ từ phía bên ngoài, từ đó giúp cho trẻ sống độc lập ở mức cao nhất và hòa nhập được với cộng Các hành vi xã hội và giới tính không phù hợpĐây là nhóm hành vi có vấn đề liên quan đến giao tiếp xã hội và giới tính. Những hành vi này phản ánh mối quan hệ thân thiện của trẻ với người khác, các quan hệ của trẻ trong cộng đồng, khả năng trẻ phân biệt các hành vi riêng tư và các hành vi xã hội, khả năng trẻ tránh bị quấy rối và lạm dụng về giới vi giao tiếp xã hội không phù hợp của trẻ có thể là ôm người khác mà không phân biệt đối tượng hoặc chưa biết giữ khoảng cách cơ thể hợp lý, ví dụ như trẻ khoác vai bạn khác giới như người yêu. Giáo viên sẽ dạy cho trẻ cách phân biệt mối quan hệ khác nhau và nhận biết cụ thể trong tình huống nào thì sử dụng lời nói và cử chỉ phù hợp, ví dụ như khi nào thì chào, bắt tay, ôm hôn tạm biệt,…Nhiều trẻ không nhận ra và tôn trọng ranh giới cá nhân, chúng có thể tự nhiên chạm vào những phần kín trên cơ thể người khác. Trong trường hợp này có thể dạy trẻ nhận biết những ranh giới cá nhân qua việc sử dụng ký hiệu viên có thể sử dụng ký hiệu màu trên quần áo hoặc hình mẫu để giúp trẻ biết rõ “vùng” nào trên cơ thể người khác được phép và không được phép chạm vào. Ví dụ như dùng đề can có biểu tượng một khuôn mặt cười dán lên vùng được phép chạm vào, một đề can có gạch chéo màu đỏ dán lên vùng không được phép chạm số trẻ khác thường gặp khó khăn trong việc kiểm soát các cảm xúc giới tính của mình, ví như cởi bỏ quần áo. Xúc cảm giới tính của trẻ là tự nhiên nhưng trẻ cần giúp đỡ để hiểu rằng trường học và nơi công cộng không phải là nơi phù hợp cho các hoạt động giới giúp trẻ CPTTT ở tuổi vị thành niên tránh bị quấy rối hoặc bị lạm dụng về giới tính, cần phải dạy cho các em biết những kỹ năng phòng tránh bằng cách nói “không, tôi không muốn như vậy”, “Hãy đi đi”, “Tôi sẽ mách mẹ hoặc thầy cô giáo”.Để có thể lập một kế hoạch giáo dục giới tính phù hợp là rất khó, nó đòi hỏi sự cộng tác chặt chẽ với gia đình nhằm tôn trọng các giá trị của gia đình và quyết định xem thông tin nào là quan trọng nhất đối với trẻ. Theo “Đại cương về giáo dục trẻ CPTTT” của tiến sĩ Huỳnh Thị Thu Hằng Hành vi của trẻ – đến một độ tuổi nhất định – dù ai hỏi gì bé toàn trả lời Không … đôi khi làm cha mẹ điên đầu. Hãy cùng tìm hiểu hành vi bé nhé! Chứng mất trí nhớ Theo Tiến sĩ Paul Frankland, một nhà khoa học nghiên cứu cấp cao tại Bệnh viện Nhi ở Toronto, chứng mất trí nhớ trẻ con được gây ra bởi sự phát triển nhanh chóng của các tế bào thần kinh trong một phần của não cho việc ghi nhớ các sự kiện và giữ lại như kỷ niệm. Do một “quá tải” trong vùng hippocampus khi hình thành tế bào thần kinh mới. Hồi hải mã hay hồi cá ngựa hippocampus là một phần của não trước, là một cấu trúc nằm bên trong thuỳ thái dương. Nó tạo thành một phần của hệ thống Limbic và có liên quan đến hoạt động lưu giữ thông tin và hình thành ký ức trong trí nhớ dài hạn và khả năng định hướng trong không gian. Chứng mất trí nhớ Điều này có nghĩa là, Đó là các bộ nhớ cho kỹ năng phát triển nhanh hơn so với bộ nhớ cho các sự kiện. Trẻ mới biết đi rất bận rộn cho việc học các kỹ năng mới, điều này làm trẻ dễ quên hoặc bỏ ngoài không biết bao lần khi bạn nói với con là “KHÔNG”. Bạn nên biết rằng bé đang làm tốt nhất trong việc học tập và phát triển theo quy trình cảu bé. Hãy kiên nhẫn và nhẹ nhàng nhắc lại nhiều lần thông tin bạn cần truyền tài cho bé – sau tất cả, bé có thể không cố tình làm việc đó. Các thử nghiệm chuột mê cung Hành vi của trẻ – bất mãn Để kiểm tra giả thuyết này, Tiến sĩ Frankland thực hiện một thử nghiệm trên một nhóm các chú chuột con. Ông cố tình làm chậm lại sự phát triển của vùng hippocampus của chuột. Lúc đầu, ông đã dạy những con chuột thế nào để đi qua mê cung và cũng giống như trẻ con, những con chuột bé thực sự không nhớ làm thế nào để định hướng mê cung trong một vài ngày. Tuy nhiên, với tế bào thần kinh của họ đặt vào việc phát triển với một tốc độ chậm hơn, những động vật gặm nhấm có thể thực sự nhớ làm thế nào để tìm đường ra khỏi mê cung ngày sau khi được đào tạo. Kiên nhẫn với bé là điều quan trọng Bạn có thể không tin các thí nghiệm trên vì sự so sánh không hợp lý giữa một em bé với một loạt các động vật gặm nhấm. Những gì chúng tôi đang cố gắng để nói là, hãy kiên nhẫn với bé con. bé mới biết đi sẽ học tập và phát triển nhanh theo quy trình của họ – bộ não củabé đang vội vã để lưu trữ tất cả các thông tin mà bé có thể lưu trữ. Vì điều này, đôi khi bé sẽ mau quên về những việc bạn dạy hay luôn nhắc nhỡ bé. Chúng tôi chắc chắn rằng không lâu nữa với quy trình phát triển của mình, bé sẽ không bỏ đồ chơi mà trong miệng hoặc trèo lên bàn ghế nữa! Thay đổi cách tiếp cận bé Hành vi của trẻ thay đổi Nếu bé vẫn không chịu lắng nghe những gì bạn nói, có lẽ đó là thời gian bạn nên thay đổi cách tiếp cận khác. Có lẽ bạn đang quá nghiêm khắc và khó khăn cho bé, cho bé quá nhiều sự chỉ dẫn qua lời nói hoặc thậm chí không tin vào phương pháp của riêng bạn. Trẻ em có thể cảm nhận được những điều này, một khi trẻ cảm thấy rằng bạn không quá chắc chắn về bản thân và hướng dẫn bạn đang đem lại cho trẻ, họ sẽ không cảm thấy nhu cầu hay động lực để làm theo lời bạn đang nói. Các cách nói khác Dùng cụm từ câu của mình khác đi, tránh kết thúc câu với những câu hỏi như “được không?” Hoặc “là tốt không?” Hãy quyết đoán hơn một chút, hãy nhớ vẫn nhẹ nhàng nhưng cương quyết. Làm điều này trong khi cố gắng để nhìn mọi thứ từ quan điểm của con mình xem. Hãy để họ biết rằng bạn biết chỉ dẫn của bạn có thể không phải là lựa chọn thú vị nhất nhưng nó cần phải được thực hiện. Trẻ em, như với tất cả mọi người, thích cảm thấy kiểm soát và muốn đưa ra một tiếng nói trong mọi thứ. Khi trẻ cảm thấy như bạn hiểu lý do tại sao họ không muốn rời khỏi sân chơi’ hay nghĩ rằng vệ sinh là một sự lãng phí thời gian, trẻ sẽ sẵn sàng hơn để làm như vậy. Hãy nhớ rằng, con cũng muốn được thể hiện sự quan trọng của mình và các ý kiến suy nghĩ của mình cũng quan trọng và có người quan tâm, thông cảm! Nguồn – Đọc thêm Dạy con lòng từ bi có quan trọng không? Mẹ dạy con trai những điều gì để hình thành nhân cách tốt từ nhỏ? Dạy con tự tin hơn giúp con trở thành thiên tài trong tương lai Vào ngay Fanpage của the Asianparent Vietnam để cùng thảo luận và cập nhật thông tin cùng các cha mẹ khác! Bạn có quan tâm tới việc nuôi dạy con không? Đọc các bài báo chuyên đề và nhận câu trả lời tức thì trên app. Tải app Cộng đồng theAsianparent trên IOS hay Android ngay! Xâm hại tình dục trẻ em chẳng còn là vấn đề xa lạ trong xã hội hiện nay, đặc biệt là khi cuộc sống ngày càng hiện đại, tệ nạn ngày càng nhiều và tình trạng tha hóa đạo đức vẫn diễn ra một cách nghiêm trọng. Chính bởi vậy mà hiểu biết về xâm hại tình dục trẻ em cần được quan tâm và lan tỏa rộng rãi hơn, những hành vi thế nào là xâm hại trẻ em? 1. Xâm hại tình dục trẻ em là gì? Thế nào là xâm hại trẻ em? Theo Luật trẻ em 2016, xâm hại tình dục trẻ em được định nghĩa là việc dùng vũ lực, hay đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến quan hệ tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em, và sử dụng trẻ em vào mục đích thương mại như mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. Xâm hại tình dục trẻ em là tình trạng xảy ra không ít trong xã hội hiện nay Hành vi xâm hại tình dục có thể thay đổi từ việc sờ mó bộ phận sinh dục của trẻ, thủ dâm, dùng miệng tiếp xúc với bộ phận sinh dục, sử dụng ngón tay động chạm vào bộ phận sinh dục của trẻ, quan hệ tình dục với trẻ qua đường sinh dục hoặc hậu môn. Ngoài ra, việc lạm dụng tình dục trẻ em không chỉ dừng lại ở các động chạm cơ thể mà còn bao gồm cả những hành vi không động chạm với cơ thể như khoe bộ phận sinh dục cho trẻ nhìn; kể cho trẻ nghe về quan hệ tình dục, cho trẻ xem phim, hoặc các loại truyện khiêu dâm, hướng dẫn, kích thích tình dục ở trẻ, có khi là rình xem trộm hoặc sử dụng hình ảnh khiêu dâm trẻ em. 2. Những thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em thường là những đối tượng nào? Nhiều người nghĩ những đối tượng xâm hại tình dục trẻ em thường là những kẻ biến thái, những tên tội phạm vô đạo đức ngoài xã hội, chính vì thế mà thường hay chủ quan. Thế nhưng mấy ai ngờ được rằng đó có khi lại là những người mà chúng ta tin tưởng nhất. Người phạm tội xâm hại tình dục trẻ em không hẳn là những người bị loạn dục với trẻ em, trừ khi họ có một ham muốn tình dục mạnh mẽ ở trẻ em trước tuổi dậy thì. Có thể hiểu là không phải ai bị loạn dục với trẻ em thì chắc chắn sẽ có hành vi tình dục với trẻ em. Đặc biệt, theo các thống về đối tượng thường gây ra xâm hại tình dục trẻ em cũng như qua các vụ việc về vấn đề này đã xảy ra, thủ phạm thường gặp nhất lại chính là những người quen biết bạn bè của gia đình, hàng xóm, người trông trẻ,… hoặc thậm chí chính là những người thân trong gia đình. Trường hợp là người lạ mặt chỉ chiếm khoảng 10% và những người bị loạn dục trong số đó chỉ chiếm thiểu số. 3. Sự khác nhau giữa xâm hại tình dục trẻ em và xâm hại trẻ em là gì? Nếu như xâm hại tình dục trẻ em là một hành vi cụ thể nào đó liên quan đến bộ phận sinh dục của trẻ, thì xâm hại trẻ em còn rộng hơn thế và xâm hại trẻ em bao hàm cả xâm hại tình dục trẻ em. Vậy xâm hại trẻ em là gì? Xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại nghiêm trọng đến thể xác và tinh thần Theo Luật trẻ em 2016, xâm hại trẻ em là hành vi gây tổn hại nghiêm trọng về mặt thể chất, tâm lý, tình cảm, cũng như danh dự, nhân phẩm của trẻ em dưới các hình thức bạo lực, bóc lột, xâm hại tình dục, mua bán, bỏ rơi, bỏ mặc trẻ em và các hình thức gây tổn hại khác nữa. Trong luật xâm hại trẻ em mới năm 2017 và có hiệu lực từ 1/1/2018 được quy định trong Bộ Luật Hình sự 2015 sửa đổi và bổ sung thì bên cạnh hành vi hiếp dâm và dâm ô thì mọi hành vi “xâm hại tình dục khác” với người dưới 16 tuổi sẽ cấu thành tội phạm. Hi vọng rằng với những thông tin được cung cấp trong bài viết có thể giúp mọi người hiểu biết hơn về khái niệm xâm hại trẻ em cũng như xâm hại tình dục trẻ em, từ đó có thể bảo vệ tốt cho con em của mình khỏi những nguy cơ tác động xấu trong xã hội. Xem thêm Trẻ em lang thang cơ nhỡ rất cần sự quan tâm Quăng đồ chơi của mình, đánh, cắn, la hét, và những hành vi không đáng yêu khác là bình thường đối với trẻ mới biết đi. Nhưng bạn có thể ngăn cản, kiểm soát những hành vi này và dạy trẻ những hành vi tốt hơn. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cung cấp những thông tin hữu ích để hiểu về những thách thức và cách cha mẹ và người chăm sóc trẻ có thể đặt giới hạn phù hợp với lứa tuổi trẻ mới biết đi. 1. Nói dối Có ba lý do chính khiến một đứa trẻ nói dối đó là nói dối để được chú ý, nói dối để tránh gặp rắc rối và nói dối để cảm thấy tốt hơn về bản thân. Phân biệt những lý do nói dối của trẻ có thể giúp cha mẹ chúng xác định hướng hành động tốt nhất. Khi bắt gặp con mình nói dối, hãy hỏi "Đó có phải là điều thực sự đã xảy ra hay chỉ là điều mà con mong muốn sẽ xảy ra?" Cho trẻ thấy được những hậu quả của việc nói dối. Nhấn mạnh tầm quan trọng của sự trung thực bằng cách tạo ra một quy tắc nhỏ dành riêng cho gia đình với nội dung "Hãy nói sự thật".Cha mẹ cũng nên khen ngợi con khi chúng nói sự thật, đặc biệt là khi những sự thật đó có thể khiến chúng gặp rắc rối. Hãy nói điều gì đó như, "Mẹ rất tự hào về con vì đã thành thật về việc con đã ăn vụng chiếc bánh kem đó khi chưa được sự cho phép của mẹ. Mẹ sẽ không phạt con vì con đã dũng cảm nhận lỗi nhưng không được để chuyện này xảy ra thêm một lần nào nữa. " 2. Tỏ vẻ thách thức Liệu trẻ đã từng phớt lờ bạn khi cha mẹ bảo chúng lấy đồ chơi hay nói "Không!" khi cha mẹ yêu cầu chúng ngừng đập đồ chơi xuống sàn, chắc chắn là đã từng như vậy bởi đó chính là hành vi thách thức của trẻ. Hành vi thách thức là hành vi khó giải quyết. Tuy nhiên việc trẻ em cố tình phớt lờ hoặc không nghe lời người lớn là chuyện bình thường và chúng cũng thường xuyên xảy giải quyết vấn đề này, hãy đưa ra những mức cảnh cáo riêng cho từng hành vi mang tính thách thức. Nếu trẻ vẫn tiếp tục thể hiện sự chống đối hãy cho trẻ thấy những hình phạt mà mình đưa ra không phải chỉ để dọa chúng. 3. Dành thời gian quá nhiều trước màn hình điện thoại hay tivi Một vấn đề phổ biến khác về hành vi của trẻ là không kiểm soát được thời gian sử dụng các thiết bị điện tử như điện thoại, máy tính hay tivi. Cho dù trẻ có la hét khi cha mẹ yêu cầu chúng tắt TV hoặc chơi trò chơi trên điện thoại của họ bất cứ khi nào cha mẹ không nhìn thì thời gian sử dụng thiết bị quá nhiều cũng không có lợi cho sức khỏe. Do đó, cha mẹ cần thiết lập các quy tắc rõ ràng về thời gian sử dụng thiết bị. Nếu trẻ quá phụ thuộc vào thiết bị điện tử để giải trí, thời gian chúng được sử dụng lại những thiết bị đó cũng sẽ cần phải được tăng lên. Không cho trẻ tiếp xúc quá sớm với các đồ điện tử cũng như chính bản thân những người lớn trong gia đình sẽ cần phải trở thành tấm gương cho trẻ. Cân nhắc thiết lập chương trình cai nghiện kỹ thuật số định kỳ cho toàn gia đình để đảm bảo rằng mọi người đều có thể hoạt động mà không quá phụ thuộc và những thiết bị điện tử của họ. Không cho trẻ tiếp xúc quá sớm với các đồ điện tử 4. Các vấn đề liên quan đến thực phẩm Nhiều bậc cha mẹ có thể đang phải đối mặt với tình trạng kén ăn của con mình. Trong khi nhiều người khác lại luôn phải đưa ra các giới hạn về lượng thực phẩm được đưa vào của trẻ. Các hành vi liên quan đến thực phẩm có thể dẫn đến tranh giành quyền lực và các vấn đề về hình ảnh cơ thể, vì vậy điều quan trọng là phải xử lý chúng cẩn thận. Tích cực làm việc để giúp trẻ phát triển một thái độ lành mạnh về thức ăn. Hãy nói rõ ràng thức ăn là để cung cấp năng lượng cho cơ thể của chúng, không phải là thứ dùng để an ủi chúng khi chúng buồn hoặc giúp chúng giải trí khi chúng thấy nhàm nói những điều đại loại như "rau có lợi cho sức khỏe." Trẻ em có xu hướng nghĩ thức ăn lành mạnh có vị không tốt. Thay vào đó, hãy nói về các loại rau ngon cũng như các loại thực phẩm bổ dưỡng khác. Thay vì cố gắng làm hài lòng tất cả mọi người trong mỗi bữa ăn, hãy phục vụ một bữa ăn cân bằng lành mạnh cho mọi người và thiết đặt những giới hạn cho đồ ăn vặt. 5. Hành vi thiếu tôn trọng Gọi thẳng tên cha mẹ, ném đồ đạc lung tung và dùng những từ ngữ không đúng mực để nói với cha mẹ chỉ là một vài trong số những vấn đề phổ biến về hành vi thể hiện sự thiếu tôn trọng của trẻ. Nếu hành vi thiếu tôn trọng không được giải quyết một cách thích hợp, nó có thể sẽ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Nếu mục đích của trẻ là thu hút sự chú ý của cha mẹ chúng, thì việc phớt lờ những hành vi này có thể là hành động tốt nhất. Cho trẻ thấy rằng việc thè lưỡi với cha mẹ mình sẽ không khiến cha mẹ phản ứng lại như cách mà chúng mong dụ, nếu trẻ gọi tên cha mẹ mình, hãy kiên quyết và bình tĩnh nói với chúng về việc sử dụng những từ ngữ tử tế. Hãy nói rõ ràng cha mẹ sẽ không cho phép chúng sử dụng ngôn ngữ đó ở nhà. 6. Rên rỉ Rên rỉ có thể là một thói quen xấu, đặc biệt nếu nó giúp trẻ đạt được điều chúng muốn. Điều quan trọng là phải hạn chế việc than vãn trước khi nó trở thành một vấn đề lớn hơn nữa. Một hành động đầu tiên mang lại hiệu quả là phớt lờ sự than vãn của trẻ. Cho trẻ thấy rằng than vãn sẽ không khiến cha mẹ thay đổi ý định và hãy dành sự quan tâm khi trẻ đã ngừng than vãn. Ngoài ra, hãy dạy cho trẻ những cách thích hợp hơn để đối phó với những cảm xúc không thoải mái, chẳng hạn như thất vọng. Trẻ có thể cảm thấy buồn và nói về điều đó, nhưng việc liên tục than vãn hay rên rỉ về một vấn đề là điều không được phép xảy ra. Hãy dạy trẻ cách đối phó với những cảm xúc không thoải mái Trẻ nhỏ thường có xu hướng bốc đồng, vì vậy không có gì lạ khi một đứa trẻ 4 tuổi thường xuyên bị ba mẹ bị đánh đòn. Trẻ lớn thường thể hiện hành vi bốc đồng thông qua lời nói, có nghĩa là chúng có thể thốt ra những câu nói không hay làm tổn thương tình cảm của mọi người. Có nhiều điều cha mẹ có thể làm để dạy con kỹ năng kiểm soát sự bốc đồng. Một cách đơn giản để giảm hành vi bốc đồng là khen ngợi trẻ mỗi khi chúng suy nghĩ trước khi nói hoặc hành động. Ngay lập tức động viên con trẻ khi chúng kiểm soát được lời nói hoặc những hành vi của mình. Dạy kỹ năng quản lý cơn giận và kỹ năng tự kỷ luật. Kiểm soát cảm xúc cũng sẽ giúp trẻ kiểm soát cảm xúc. 8. Các vấn đề về hành vi trước khi đi ngủ Cho dù trẻ không chịu ở trên giường hoặc chúng đòi ngủ cùng với cha mẹ, những thách thức trước khi đi ngủ là điều thường thấy. Nếu không có biện pháp can thiệp thích hợp, trẻ có thể sẽ bị mất ngủ. Thiếu ngủ có liên quan đến việc gia tăng các vấn đề về hành vi ở trẻ nhỏ. Và thiếu ngủ cũng có thể dẫn đến các vấn đề sức khỏe thể lập các quy tắc rõ ràng về giờ đi ngủ và tạo thói quen đi ngủ lành mạnh. Sự nhất quán là chìa khóa để giúp trẻ thiết lập thói quen ngủ lành mạnh. Vì vậy, ngay cả khi cha mẹ phải đưa con về phòng cả chục lần trong một đêm, hãy tiếp tục làm điều đó. Cuối cùng, hành vi trước khi đi ngủ của bé sẽ được cải thiện. 9. Hung hăng quá mức Hành vi hung hăng của trẻ có thể biểu hiện bằng việc ném những cuốn sách đi khi chúng cảm thấy chán nản với những bài tập về nhà. Thậm chí cãi nhau hoặc đánh nhau với anh chị em hay các bạn cùng trang lứa. Một số trẻ trở nên hung dữ vì chúng không biết cách xử lý cảm xúc của mình làm sao cho phù hợp với môi trường xung bác sĩ cho biết thêm Hành vi hung hăng là bình thường đối với trẻ mới biết đi và trẻ mẫu giáo. Tuy nhiên, sự hung hăng sẽ giảm dần theo thời gian khi trẻ lớn lên và học được các kỹ năng mới, đặc biệt là kỹ năng trong việc kiểm soát cảm xúc của bản thân. Hành vi hung hăng là bình thường đối với trẻ mới biết đi và trẻ mẫu giáo Hãy để trẻ dần nhận ra những hậu quả của hành vi hung hăng quá mức. Thậm chí có thể đưa ra những hình phạt nếu con làm tổn thương một ai đó. Nếu sự hung hăng không thuyên giảm theo thời gian, hãy tìm kiếm sự trợ giúp từ chuyên gia. 10. Những cơn giận dữ Cơn giận dữ thường gặp nhất ở những đứa trẻ mới biết đi và trẻ mẫu giáo. Nhưng chúng có thể tiếp tục kéo dài cho đến trẻ vào lớp một hoặc cao hơn nữa nếu không được giải quyết nhanh qua có thể là một trong những cách tốt nhất để xử lý cơn giận dữ hay la hét của trẻ. Hãy để trẻ biết rằng việc dậm chân, la hét hoặc lăn đùng ra ăn vạ sẽ không giúp chúng đạt được điều chúng muốn. Điều quan trọng là chỉ cho bé những cách tốt hơn và hiệu quả hơn để thể hiện nhu cầu của trẻ và đáp ứng những nhu cầu vấn đề về hành vi của trẻ sẽ được giải quyết một cách tốt nhất thông qua các chiến lược kỷ luật nhất quán. Những giai đoạn như thế này là bình thường và có thể chỉ là một quá trình phát triển mà trẻ cần phải trải qua. Nhưng nếu các vấn đề về hành vi không đáp ứng với các chiến lược kỷ luật của cha mẹ hoặc hành vi của trẻ đã bắt đầu làm gián đoạn việc giáo dục của chúng cũng như các mối quan hệ bạn bè, hãy nói chuyện với bác sĩ nhi khoa để cùng tìm ra cách giải ra, để phòng tránh các bệnh lý mà trẻ nhỏ hay mắc phải, cha mẹ nên chú ý đến chế độ dinh dưỡng nâng cao sức đề kháng cho trẻ. Đồng thời bổ sung thêm thực phẩm hỗ trợ có chứa lysine, các vi khoáng chất và vitamin thiết yếu như kẽm, crom, selen, vitamin nhóm B,... giúp hỗ trợ hệ miễn dịch, tăng cường đề kháng để trẻ ít ốm vặt và ít gặp các vấn đề tiêu mẹ có thể tìm hiểu thêmVì sao cần bổ sung Lysine cho bé?Vai trò của kẽm - Hướng dẫn bổ sung kẽm hợp lý Nguồn tham khảo XEM THÊM Tăng động giảm chú ý ADHD khác gì rối loạn thiếu tập trung ADD? Trẻ hay nói tục và thô lỗ Phải làm sao? Nguyên nhân trẻ nói dối và cách ứng phó phù hợp Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu về tâm một báo cáo gần đây nêu chi tiết về xu hướng gia tăng tỷ lệ tử vong do tự tử ở Hoa Kỳ NCHS Brief số 398, tháng 2 năm 2021, nữ giới từ 10 đến 14 tuổi cho thấy tỷ lệ tử vong do tự tử tăng từ 0,5% năm 1999 lên 3,1% vào năm 2019; ở nam giới từ 10 đến 14 tuổi tỷ lệ tăng từ 1,9% lên 3,1%. Một số yếu tố có thể góp phần vào sự gia tăng các lần toan tự sát, bao gồm sự gia tăng trầm cảm ở tuổi vị thành niên, đặc biệt là ở trẻ em gái 1 Tài liệu tham khảo Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm ; tăng đơn thuốc opioid của cha mẹ 2 Tài liệu tham khảo Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm ; tỷ lệ tự tử ở người lớn gia tăng dẫn đến ý thức về tự tử của thanh niên ngày càng cao 3 Tài liệu tham khảo Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm ; mối quan hệ ngày càng mâu thuẫn với cha mẹ; và các yếu tố gây căng thẳng trong học tập 4, 5 Tài liệu tham khảo Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . 1. Mojtabai R, Olfson M, Han B National trends in the prevalence and treatment of depression in adolescents and young adults. Khoa nhi 1386e20161878, 2016. doi Brent DA, Hur K, Gibbons RD Association between parental medical claims for opioid prescriptions and risk of suicide attempt by their children. JAMA Psychiatry 769941-947, 2019. doi Wang J, Sumner SA, Simon TR, et al Trends in the incidence and lethality of suicidal acts in the United States, 2006 to 2015. JAMA Psychiatry 777684-693, 2020. doi 4. Shain B, Committee on Adolescence Suicide and suicide attempts in adolescents. Pediatrics 1381e20161420, 2016. doi Bilsen J Suicide and youth Risk factors. Front Psychiatry 9540, 2018. doi 7. Bridge JA, Asti L, Horowitz LM, et al Suicide trends among elementary school-aged children in the United States from 1993 to 2012. JAMA Pediatr1697673-677, 2015. doi Các loại thuốc khác cũng đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm báo cáo là làm tăng nguy cơ dẫn đến cảnh báo hộp đen. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chẳng hạn như sử dụng thuốc chống động kinh, rất khó xác định vì bản thân chứng động kinh có liên quan đến nguy cơ tự tử tăng gấp 5 lần nếu không có thuốc chống động yếu tố góp phần khác có thể bao gồm Thiếu cơ cấu và ranh giới, dẫn đến một cảm giác thiếu sự chỉ dẫnÁp lực của cha mẹ gay gắt để thành công kèm theo cảm giác thất vọng so với mong đợiĐộng cơ thường xuyên cho một nỗ lực tự tử là một nỗ lực để thao tungs hoặc trừng phạt những người khác với những tưởng tượng "Bạn sẽ được xin lỗi sau khi tôi đã chết."Các yếu tố bảo vệ bao gồm Dễ dàng tiếp cận các can thiệp lâm sàngHỗ trợ gia đình và cộng đồng sự kết nốiKỹ năng giải quyết xung độtNiềm tin vào văn hoá và tôn giáo làm giảm tự sát can thiệp khủng hoảng, có thể bao gồm cả nhập việnTâm lý trị liệu Có thể dùng thuốc để điều trị rối loạn cơ bản, thường kết hợp với liệu pháp tâm lýGiới thiệu về tâm thầnMọi nỗ lực tự tử là một vấn đề nghiêm trọng đòi hỏi sự can thiệp chu đáo và thích đáng. Một khi mối đe dọa trực tiếp đến cuộc sống đã được gỡ bỏ, cần quyết định về sự cần thiết phải nằm viện. Quyết định này liên quan đến việc cân bằng mức độ rủi ro với khả năng hỗ trợ của gia đình. Việc nhập viện ngay cả các khu vực y tế hoặc nhi khoa mở với điều dưỡng trực đặc biệt là hình thức bảo vệ ngắn hạn nhất và thường được chỉ định khi trầm cảm, loạn thần, hoặc nghi ngờ cả năng gây chết của ý định tự tử có thể được đánh giá dựa trên những điều sau đây Mức độ tiên đoán được bằng chứng ví dụ bằng cách viết một lá thư tự sátCác bước thực hiện để ngăn ngừa phát hiệnPhương pháp được sử dụng ví dụ, vũ khí gây chết người hơn thuốcMức độ tự gây thương tích bền vữngCác tình huống hoặc các yếu tố kết tủa xung quanh sự nỗ lựcTrạng thái tinh thần vào thời điểm đó sự kích động cấp tính đặc biệt đáng quan tâmMới được ra viện gần đâyGần đây ngưng các loại thuốc thần kinhViệc giới thiệu đến các nhà tâm thần thường là cần thiết để cung cấp liệu pháp điều trị và liệu pháp tâm lý thích hợp. Liệu pháp hành vi nhận thức để ngăn ngừa tự sát và trị liệu hành vi biện chứng có thể thích hợp hơn. Điều trị thành công nhất nếu người chăm sóc chính tiếp tục tham dựng lại tinh thần và khôi phục trạng thái cân bằng tình cảm trong gia đình là rất cần thiết. Phản ứng của cha mẹ tiêu cực hoặc không hỗ trợ là một mối quan tâm nghiêm trọng và có thể gợi ý cần một sự can thiệp sâu hơn như địa điểm ở ngoài nhà. Một kết quả tích cực là rất có thể nếu gia đình cho thấy tình yêu và sự quan tâm. 1. Hesdorffer DC, Ishihara L, Webb DJ, et al Occurrence and recurrence of attempted suicide among people with epilepsy. JAMA Psychiatry 73180-86. 2016. doi Các thành viên trong gia đình của trẻ em và vị thành niên đã tự tử có phản ứng phức tạp đối với việc tự sát, bao gồm đau buồn, cảm giác tội lỗi và trầm cảm. Việc tư vấn có thể giúp họ hiểu được bối cảnh tâm thần của tự sát và suy nghĩ và thừa nhận những khó khăn của đứa trẻ trước khi tự khi tự sát, nguy cơ tự sát có thể tăng lên ở những người khác trong cộng đồng, đặc biệt là bạn bè và bạn cùng lớp của người tự sát. Các nguồn lực ví dụ, hướng dẫn đối phó với sự mất mát khi tự tử có sẵn để giúp các trường học và cộng đồng sau khi tự tử. Các viên chức nhà trường và cộng đồng có thể sắp xếp để các chuyên viên chăm sóc sức khoẻ tâm thần sẵn sàng cung cấp thông tin và tư vấn. Các vụ tự tử thường xảy ra trước những thay đổi về hành vi ví dụ, tâm trạng thất vọng, lòng tự trọng thấp, rối loạn giấc ngủ và chán ăn, không tập trung, trốn học, than phiền và lo lắng về tự sát, thường dẫn đến trẻ em hoặc vị thành niên đến văn phòng bác sỹ. Những tuyên bố như "Tôi ước gì tôi chưa bao giờ được sinh ra" hoặc "tôi muốn đi ngủ và không bao giờ thức dậy" nên được xem xét nghiêm túc như những chỉ điểm về ý định tự sát. Một mối đe dọa hoặc nỗ lực sát tử thể hiện một sự truyền thông quan trọng về cường độ trải nghiệm sự tuyệt nhận ra sớm các yếu tố nguy cơ được đề cập ở trên có thể giúp ngăn ngừa một nỗ lực tự sát. Để đối phó với những tín hiệu ban đầu, đe doạ hoặc cố gắng tự sát, hoặc hành vi nguy cơ nghiêm trọng, can thiệp mạnh mẽ là thích hợp. Vị thành niên nên được đặt câu hỏi trực tiếp về cảm giác không vui hoặc tự hủy hoại; việc đặt câu hỏi trực tiếp như vậy có thể làm giảm nguy cơ tự tử. Bác sĩ không nên cung cấp sự trấn an không có căn cứ, điều này có thể làm suy giảm uy tín của bác sĩ và làm giảm lòng tự trọng của vị thành niên. Các bác sĩ nên sàng lọc khả năng tự tử trong cơ sở y tế. Nghiên cứu được công bố vào năm 2017 chỉ ra rằng 53% số bệnh nhi đến khoa cấp cứu vì lý do y tế không liên quan đến tự tử được sàng lọc dương tính với tự tử 1 Tài liệu tham khảo về phòng ngừa Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . Cũng có bằng chứng cho thấy hầu hết người lớn và trẻ em cuối cùng chết vì tự tử đã được chăm sóc về mặt y tế vào năm trước khi chết 2, 3 Tài liệu tham khảo về phòng ngừa Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . Bắt đầu từ tháng 7 năm 2019, Ủy ban hỗn hợp đã yêu cầu các bệnh viện đánh giá tình trạng tự tử trong khuôn khổ của điều trị tiêu chuẩn trong y khoa 4, 5 Tài liệu tham khảo về phòng ngừa Hành vi tự sát bao gồm tự sát đã hoàn thành, cố gắng tự sát với ít nhất một số ý định chết, và hành động tự sát; ý tưởng tự sát là những suy nghĩ và kế hoạch tự sát. Thường được giới thiệu... đọc thêm . Ngoài việc sàng lọc về tự tử, các bác sĩ nên giúp bệnh nhân làm những điều sau đây, có thể giúp làm giảm nguy cơ tự sát Tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thầnNhận sự hỗ trợ từ gia đình và cộng đồngTìm hiểu cách giải quyết mâu thuẫn một cách hòa bình Một môi trường nuôi dưỡng hỗ trợSẵn sàng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ tâm thầnMột môi trường xã hội được đặc trưng bởi sự tôn trọng các khác biệt cá nhân, sắc tộc và văn hoá 1. Ballard ED, Cwik M, Van Eck K, et al Identification of at-risk youth by suicide screening in a pediatric emergency department. Prev Sci 182;174-182, 2017. doi Oein-Odegaard C, Reneflot A, Haugue LI Use of primary healthcare services prior to suicide in Norway A descriptive comparison of immigrants and the majority population. BMC Health Serv Res191508, The Joint Commission Detecting and treating suicide ideation in all settings. Sentinel Alert Event, 561-7, Brahmbhatt K, Kurtz BP, Afzal KI, et al Suicide risk screening in pediatric hospitals Clinical pathways to address a global health crisis. Psychosomatics 6011-9, 2019. doi 6. Bridge JA, Greenhouse JB, Ruch D, et al Association between the release of Netflix's 13 Reasons Why and suicide rates in the US An interrupted time series analysis. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry 592236-243. doi Brent DA Master clinician review Saving Holden Caulfield Suicide prevention in children and adolescents. J Am Acad Child Adolesc Psychiatry58125-35, 2019. Tự sát rất hiếm ở trẻ ở giai đoạn tiền dậy thì nhưng là nguyên nhân thứ 2 hoặc thứ 3 gây tử vong ở trẻ từ 15 đến 19 xét điều trị bằng thuốc đối với bất kỳ rối loạn cơ bản nào ví dụ rối loạn khí sắc, loạn thần; tuy nhiên, thuốc chống trầm cảm có thể làm tăng nguy cơ tự tử ở một số vị thành niên, do đó phải theo dõi cẩn thận việc sử dụng thuốc và chỉ cung cấp thuốc số lượng kiếm những thay đổi cảnh báo sớm về hành vi ví dụ như bỏ học, ngủ hoặc ăn quá nhiều hoặc quá ít, đưa ra các tuyên bố đề xuất ý định tự tử, có hành vi rất nguy hiểm. Sau đây là một số công cụ sàng lọc bằng tiếng Anh về tự tử trong cơ sở y tế có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của các tài nguyên này. Ask Suicide-Screening Questions ASQ Toolkit This five-question screening tool is designed to be used by doctors to screen children and adolescents for suicide risk for immediate, appropriate Suicide Severity Rating Scale C-SSRS Comprehensive information on a unique suicide risk assessment tool that is endorsed by the World Health Organization, the Food and Drug Administration, and the Centers for Disease Control and Prevention, among other prestigious Health Questionnaire PHQ-9 Tool Along with this tool, there is in-depth information on when and why to use it as well as the pearls and pitfalls associated with its use.

hành vi của trẻ