Thương nhớ Trà Long một cuốn sách lãng mạn, trong từng con chữ đầy ắp tình yêu với mưa, với lá, với ngôi nhà cũ, cuốn sách xưa, cùng nỗi nhớ quê và những kỷ niệm thuở nhỏ, có thể thấy mùi vị của những món ăn mẹ nấu, màu sắc trái cây mẹ mua, những trò chơi của con nhà nghèo
"Cánh đồng quê chảy máu", "Giây thép gai đâm nát trời chiều" là những hình ảnh thơ mới mẻ, độc đáo và hay. "Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu" là một hình ảnh mang tính kế thừa sáng tạo, thể hiện một hồn thơ chiến sĩ cho ta nhiều rung cảm thấm thía
QUÊ HƯƠNG NỖI NHỚ Tác giả: Hoàng Thanh Tâm Trở về tìm mái nhà quê Tìm hình bóng mẹ bộn bề nắng mưa Tìm nắng xuyên ngọn cây dừa Tìm hương mạ mới gió lùa thơm tho Tìm đàn trâu với con đò Áo bà ba mẹ câu hò trên sông Nón lá nghiêng nắng nước ròng Miền quê khó nhọc con còng con cua Lục bình tim tím mùa mưa Bồng bềnh một khúc sông khua mái chèo
Nỗi nhớ và "yêu thương" cũng là tình cảm của người chiến sĩ Tây Tiến với núi rừng và con sông Mã miền Tây: "Sông Mã xa rồi Tây Nhớ ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi".Câu thơ của Chế Lan Viên hàm chứa tình cảm đẹp, đồng thời phát hiện chiều sâu của tâm hồn
Tôi vẫn nhớ cái dáng gầy xiêu vẹo của mẹ bên bờ sông chiều hanh hao nắng. Nỗi nhớ đắng đót một tuổi thơ êm đềm vuột trôi. Ba không cho mẹ một cuộc sống đủ đầy. Những thiếu thốn và lo toan cuộc
Truyện kể về việc nhân vật "tôi" trở về quê hương sau hơn hai mươi năm xa quê. Cảnh vật làng quê trở nên tiêu điều, hoang vắng chứ không còn là một làng quê tươi đẹp đến nỗi không có hình ảnh ngôn ngữ nào có thể diễn tả được như trong trí nhớ của nhân vật.
VyPl. Đọc truyện ngắn thương nhớ đồng quê Truyện ngắn thương nhớ đồng quê do sưu tầm đọc truyện ngắn thương nhớ đồng quê Đọc truyện ngắn thương nhớ đồng quê Tác giả Nguyễn Huy Thiệp Chương Mở đầu Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. Đi trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng. Xa mờ là vỏng cung Đông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi đến đấy phải năm mười cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về. Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa. Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa. Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lắp ra đa với máy thông tin, mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người . Chú Phụng thì khác, Chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú cháu với nhau Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái . Nhà chú Phụng toàn phụ nữ mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gái. Chú Phụng đùa Chú đẹp giai nhất nhà . Chị Ngữ là chị dâu tôi,lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh Túc, Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quỳ. ông giáo Quỳ có nhiều sách. Mọi người vẫn bảo ông là đồ gàn , lại bảo ông là lão dê già , Quỳ dê . ông giáo Quỳ có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị dâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. ông giáo Quỳ lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì. Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả sân. Tôi gọi cái Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em gái tôi người nhỏ quắt, đen đúa nhưng mắt sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi ướt đầm hai bên vạt áo. Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa uống ừng ực. Nước mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ tôi không ăn được thịt mỡ. Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên ngây ngất. Mùi lúa ngột ngạt. Đường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi đi qua cổng nhà dì Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi Anh Nhâm! Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội . Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay. Chú Sang chồng dì Lưu đang công tác bên. Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai chú Sang ngoài Hà Nội có con gái là Quyên đi học Dại học bên Mỹ. Hồi bé Quyên đã có lần về thăm quê. Tôi cầm bức điện đọc Cô Lưu cho người ra ga đón cháu Quyên 14 giờ ngày… Tôi hỏi cái Mị Chiều nay à? Cái Mị gật đầu. Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi Nhâm giúp dì ra đón em Quyên nhé . Tôi bảo Nhà cháu đang gặt . Dì Lưu bảo Để đấy đã. Gặt ở khoảnh nào? Tôi bảo Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng . Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ tôi. Cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn. Nó hay nói, hay làm nũng. Cái Mị bảo Anh Nhân ơi, hôm nào anh làm cho em cái lồng lấy ổi . Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lồng hơi giống hom giỏ, có hàm răng mở ra. Tôi bảo Em kiếm nứa đi . Cái Mị bảo Em có rồi. Mai anh làm nhé Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuya. Cái Mị bảo Mai đấy . Tôi bảo ừ . Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi gãy cành có lần suýt ngã. Chú Phụng đọc tờ điện báo nói Sao lại bưu cục S. N. N? Thế là nghĩa lý gì? Bọn ở thành phố nhiều mưu kế lắm . Mẹ tôi bảo Dì Lưu đã nhờ đi thì Nhâm đi đi. Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc . Tôi bảo cái Mị Em về đi. Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn . Cái Mị về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần trên cánh đồng xa tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái. Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. Đất trên mặt ruộng ẩm ướt. Những con châu chấu nhỏ xíu nhảy lách tách. Đến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra chỉ có bốn người nhà tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhể gai ở chân. Chị Ngữ đội nón, khăn trùm mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về dãy núi xa phía vòng cung Đông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng hỏi Mày về luôn chứ? Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầu. Hai chú cháu tôi mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi sau. Gánh lúa rất nặng, tôi thấy chân mình run lắm cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước. 2000 bước. Cứ thế. Cứ thế mãi. Rồi cũng đến nhà. Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng mang cơm ra đồng cho mẹ tôi và chị Ngữ. Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không mệt tôi đánh thông đấu gạo. Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc màu của bố tôi. Tôi sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo Cháu cầm lấy ít tiền . Dì Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hai cân thóc. Dì Lưu hỏi Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không? Tôi gật đầu, thực ra tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra. Tôi đạp xe ra ga. Từ làng tôi đến ga tám chín cây số. Lâu lắm tôi mới đi xa thế này. Con đường đất men theo rìa làng, qua đình làng, qua đầm sen rồi theo bờ mương ngược về huyện lỵ. Tôi nghĩ. Những ý nghĩa của tôi mung lung. Tôi nghĩ Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ Sự bất lực của hình thức biểu đạt Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất Những số phận hưu hắt đầy mặt đất Bao tháng ngày trôi đi Bao kiếp người trôi đi Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này Nhặt được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôi Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi Nhặt được niềm hy vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôi Và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê Tôi rốt ráo bắt tỉa tùng ý nghĩ Tìm cách săn đuổi cho nó vào chuồng Và tôi hú gọi trên cánh đồng lòng Tru lên như con sói hoang Tôi gắng gặt một lượm sống Bó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ Tôi hú gọi trên cánh đồng người Tôi nhặt những ánh mắt đời Hòng dõi theo ánh mắt tôi Dõi vào cõi ý thức Cõi ý thức mênh mông xa vời Dầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi. Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã cánh đi trên sân ga. Có khoảng chục người chờ ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở băng cát xét nhà nào đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi Người đi qua đời tôi, có nhớ gì không người? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em? Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hàng quần áo, giày dép, đường sữa, thuốc lá. ô tô chạy xuôi chạy ngược. Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng. Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to Tàu về . Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên Tàu về . Tiếng còi tàu hăm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng. Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy xuôi chạy ngược. Tiếng rao hàng chen nhau Nước đây! Ai bánh nào! Ai nước nào! Ai bánh nào! Ai nước nào! Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngổn ngang ở ngay bậc cửa. Đây là ga lẻ. Đồng quê tôi vô danh. Nơi tôi đứng đây vô danh. Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé Tôi nhận ra mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên cao, gầy tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người này, đấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng già. Quyên. Quyên xõa tóc, mặc áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi. Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra. Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngay. Quyên bảo Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không? Tôi bảo Vâng . Quyên cười Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu. Anh tên gì? Tôi bảo Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng . Quyên hỏi Thế anh có họ hàng gì với tôi không? Tôi bảo Không . Quyên gật đầu Tốt. Cô Lưu thuê anh à? Tôi nhìn cái bóng tối sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê, làm mướn. Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi nhau lướt trên mặt đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì có nghĩa. Quyên hỏi Nhà anh cấy bao nhiêu sào? Mỗi sào bao nhiêu thóc? Được bao nhiêu tiền? Tôi bảo Mỗi sào được hơn ba nồi, khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư . Quyên nhẩm Hai mươi triệu tấn thóc cho sáu mươi triệu người . Tôi bảo Có ai chỉ nghĩ đến ăn . Qua đầm sen gập sư Thiều. Sư Thiều chào. Tôi chào lại. Sư Thiều bảo Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu . Tôi bảo Để lúc nào qua chùa con xin . Tôi thú chơi hoa. ông giáo Quỳ bảo Đấy là thú của kẻ biết đời chó lắm . Sư Thiều bảo Có lấy ít sen về cắm lọ không? Đầm sen của chùa mùa này nhiều hoa. Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc thuyền thúng chỉ vừa người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo Tôi muốn đi thuyền . Tôi gọi sư Thiều. Sư Thiều ghé thuyền vào. Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên trèo lên thuyền. Tôi đẩy thuyền ra. Sư Thiều bảo Chiều người lụy ta . Tôi cười. Tôi và sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi rỗng hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không. Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư Thiều hỏi Ngon không? Quyên bảo Ngon. Sư Thiều mồ côi cha mẹ. Năm 15 tuổi có người trông thấy tướng lạ bảo Nên xuất gia, trong trần gian không có chỗ chứa cậu . Sư Thiều nghe lời, đi du phương nhiều nơi, tìm hiểu qua nhiều bậc thiện tri thức nhưng chẳng ngộ. Sư Thiều nói Nay phật ở nơi không có Phật . Lại nói Đạo không tâm hợp người Người không tâm hợp đạo . Sư Thiều tìm thấy một nền chùa cũ bèn phát công đức, tìm cách tu dựng lại, không hiểu sao gọi là Bạch xỉ tự Chùa trắng răng. Sư Thiều hay đọc thơ, có câu Cô luân độc chiếu giang sơn tịnh Tự tiếu nhất thinh thiên địa kinh . Nghĩa là Một vầng riêng chiếu non sông lặng Chợt cười một tiếng đất trời kinh . Lại có câu Lộ phùng kiếm khách tu trình kiếm Bất thị thi nhân mạc hiến thi Nghĩa là Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm Chẳng phải nhà thơ chớ hiến thơ . Sư Thiều bảo Phật dạy con người tu một cách thực tế, tìm lại bản lai diện mục của mình. Phật quá thực tế nên không phải ai cũng hiểu . Tôi và Quyên về nhà. Dì Lưu nước mắt lã chã gọi Cháu! Cháu ơi! Quyên ngồi bên giường bảo Bố mẹ cháu nhớ ngày giỗ ông nhưng bận không về được, bảo gửi cho cô chú ít tiền . Dì Lưu bảo Cô chú không cần tiền, chỉ cần tình cảm . Quyên lấy ở túi ra năm triệu đồng đưa cho dì Lưu. Quyên bảo Chị cho Mị cái áo . Cái Mị cười bẽn lẽn bảo Em cám ơn chị . Tôi bảo dì Lưu Cháu về đây . Tôi nhét trả dì Lưu hai nghìn đồng xuống gối rồi về. ở nhà đang tuốt lúa. Chị Ngữ hỏi Con bé Quyên có xinh không? Tôi bảo Xinh! ăn cơm xong thì tối mịt. Trời đổ mưa rào. Sấm sét nổ vang trời. Cả nhà tôi lục đục chuyển thóc ra khỏi chỗ dột. Xong mọi việc thì đồng hồ đã 11 giờ khuya. Trời vẫn mưa. Tôi bỗng thấy bồn chồn lòng dạ, không ngồi yên được. Tôi bảo mẹ tôi Con muốn ra đồng bắt ếch. Mưa này có nhiều ếch . Mẹ tôi bảo Con không sợ sấm sét ư con? Tôi cười. Mẹ tôi chẳng hiểu nụ cười của tôi đâu. Tôi cười như một tên thổ phỉ, cười như một gã nặc nô, cười như một tên quỷ sứ cười móng chân tay mình sao lại đen dài như thế. BàI HáT PHụ ĐóNG BắT ếCH Hồn ếch ta đã về đây Phải nằm khô cạn, ta nay lên bờ ở bờ những hốc cùng hang Chăn chiếu chẳng có trăm đường xót xa Lạy trời cho đến tháng ba Được trận mưu lớn ta ra ngồi ngoài Ngồi ngoài rộng rãi thảnh thơi Phòng khi mưa nắng ngồi ngoài kiếm ăn Trước kia ta vẫn tu thân. Ta tu chẳng được thì thân ta hèn Ta gặp thằng bé đen đen Nó đứng nó nhìn nó chẳng nói chi Ta gặp thằng bé đen sì. Tay thì cái giỏ tay thì cần câu Nó có chiếc nón đội đầu Khăn vuông chít tóc ra màu xinh thay Nó có cái quạt cầm tay Nó có ống nứa bỏ đầy ngoé con Nó có chiếc cán thon thon Nó có sợi chỉ son son dài dài ếch tôi mới ngồi bờ khoai Nó giật một cái đã sai quai hàm Mẹ ơi lấy thuốc cho con Lấy những lá ớt cùng là xương sông ếch tôi ở tận hang cùng Bên bờ rau muống phía trong bè dừa Thằng Măng là con chú Tre Nó bắt tôi về làm tội lột da Thằng Hành cho chí thằng Hoa Mắm muối cho vào cay hỡi đắng cay Bụt ơi bụt hiện xuống đây Lượm oan hồn ếch đón bay về trời Trăm năm lẫn lộn khóc cười Kiếp ếch kiếp người cay hỡi đắng cay… Đồng vắng lặng. Tiếng ếch ộp oạp. Tiếng ễnh ương rất vang, rất to. Tiếng côn trùng rỉ rắc. Mưa Mưa miên man. Tôi cầm đèn pin, chân xéo bừa lên các chân rạ ẩm ướt. ếch có nhiều, đờ đẫn dưới ánh đèn, chỉ cần bắt cho vào rọ. Sấm sét nổ vang trời. Chớp lóe sáng. Vũ trụ mở ra vô cùng vô tận. Gió ào ào, nghe như có muôn vàn cánh chim bay đang vỗ trên đầu. Một cảm giác kinh dị xâm chiếm toàn thân khiến tôi bủn rủn. Tôi rõ ràng thấy có một bóng hình vĩ đại đang lướt nhanh qua, đang chuyển vận mãnh liệt trên đầu. Tôi nằm áp xuống bờ rạ, tâm trạng bàng hoàng, thổn thức. Tôi tin chắc ở lực lượng siêu việt bên trên tôi kia, đang chuyển vận rầm rộ kia, thấu hiểu tất cả, phân minh lắm, rạch ròi, chắc chắn bảo dưỡng tính thiện trong tâm linh con người, có khả năng an ủi, âu yếm đến từng số phận. Điều ấy khiến tôi an lòng. Tôi đã đúng Tôi an lòng bởi sự lựu chọn hình thức biểu đạt này Hình thức khó khăn, tầm thường, vô nghĩa, phù phiếm Để sáng danh giá trị thiện tri thức Trên cánh đồng hoang này Cánh đồng hoang của mê muội và cái ác nhởn nhơ Ai đấy? Ai cất lên tiếng sáo nỉ non trong đêm Và những anh linh nào, nhũ ng hồn ma nào quờ quạng Tiếng thở nào rất khẽ Nụ cười nào rất khẽ Cất lên ghê rợn từ hàm răng trắng Những tiếng thì thầm nào Những lời rên rỉ côn trùng, không nghĩa lý gì Chỉ riêng tiếng sáo mục đong nhỏ nhoi, Đi hoang trên cánh đồng lòng Đi hoang trên cánh đồng người Kẻ tha nhân nào sống sót Gã tri âm nào lắng nghe Cội rễ nào gọi về Rung tiếng tơ đồng Đêm vô minh này còn ai thức chong Ai rảo bảo phiêu du trên đông Trong cõi trần ai mênh mông Mưa ngớt dần. Tôi đi qua khoảnh ruộng này, khoảnh ruộng khác. Bọn ếch củng biến đâu mất. Thỉnh thoảng chỉ thấy một con nhái bén phóng vèo theo rạch nước. Thấp thoáng chân trời phía vòng cung Đông Sơn ánh lửa le lói. Tôi cảm giác thấy mình lạc hướng. Tôi không biết bây giờ là mấy giờ nhưng bỗng nhiên nghe thấy tiếng gà kêu. Tiếng gà kêu khắc khoải, chẳng trình tự gì, khi đổ hồi khi tiếng một. Tôi đi lúc lâu chẳng thấy có con ếch nào, bỗng nhiên nhận ra mình đã lạc đến tận rạch sông Cấm lúc nào chẳng biết. Trên trời, đơn độc một vì sao Mai. Mãi đến tận mờ sáng tôi mới lần về đến rìa làng. Không khí rất sạch. Làng quê quen thuộc, yên tĩnh. Sau mưa, quang cảnh hiện lên vừa đỏm dáng, vừa tinh khiết. Qua nhà thím Nhung, tôi dừng lại. Ngôi nhà nhỏ nép ven đường. Phiên liếp hé mở. Một bóng người vội vã lách ra. Người ấy trông trước trông sau rồi vụt chạy nhanh khuất sau bụi duối. Trộm chăng? Tôi định kêu lên thì nhận ra chú Phụng. Một lát, thím Nhung mở cửa bước ra, vẻ bình thản, mặc bộ đồ váy ngủ phong phanh. Thím Nhung hơn ba mươi tuổi, người cân đối, xinh đẹp. Tôi xách giỏ ếch đi sau chú Phụng. Đến chỗ rẽ, chú Phụng ngoái lại thấy tôi. Chú Phụng hỏi ếch có nhiều không? Tôi không trả lời. Chú Phụng thoáng giật mình. Chú căn vặn Mày sao thế? Tôi bỗng thấv buồn da diết. Tôi buồn cho thím Nhung, buồn cho chú Phụng, cho ông giáo Quỳ. Tôi buồn cho tôi. Chú Phụng bỏ đi, vẻ bất cần. Tôi về nhà. Hóa ra cũng chỉ có khoảng hai chục con ếch. Chị Ngữ bảo Chẳng bõ. Thế mà cũng đi suốt đêm . Mẹ tôi cười Chắc cu cậu vừa bắt ếch, vừa ngủ gật . Cái Minh sửa soạn đến trường để sinh hoạt hè. Nó mặc quần phăng xanh, áo trắng, đây là bộ diện nhất mà nó chỉ mặc trong dịp hè. Cái Minh ghé tai tôi bảo Em biết anh đi đâu rồi, nhưng em không nói. Không phải anh đi bắt ếch. Cái Minh cười. Tôi nhìn vào mắt nó. Nó biết. Tôi đâu ngờ rằng chỉ vài giờ sau tôi đã phải khóc nó. Nó biết, đơn giản vì gần như nó đã trải qua, thấu suốt. Đến lúc ấy, lúc nó chết, chỉ còn hơn bốn giờ nữa để nó đùa cợt và ngộ cho xong hết thảy mọi điều. Mẹ tôi bảo Con mang mấy con ếch sang cho nhà bác giáo Quỳ nhắm rượu. Tôi bảo Vâng. Nói xong đi tắm. Mẹ tôi và chị Ngữ ra đồng dỡ lạc. Đấy cũng là công việc của tôi buổi sáng. Tôi xách xâu ếch qua nhà ông giáo Quỳ. Qua nhà dì Lưu thấy Quyên gọi Anh gì ơi!. Tôi bảo. Tôi là Nhâm. Cái Mị đâu rồi? Quyên bảo Mị đến trường. Anh đi đâu cho tôi đi với. Chúng tôi đến nhà ông giáo Quỳ. Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chào. Quyên chào lại. Quyên ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo. Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi về sư Thiều. Ông giáo Quỳ dạy cấp một, tính thương người, hay đọc sách từ nhỏ. Lớn lên, cha mẹ đi hỏi vợ cho, ông giáo Quỳ bảo Cô đừng lấy tôi rồi khổ một đời. Người kia bảo Khổ cũng lấy. ông giáo Quỳ bảo Lời tôi thì đừng sợ nghèo là một, đừng sợ nhục là hai, đừng ghen tuông là ba, phải trọng liêm sỉ là bốn. Người kia bảo Biết trọng liêm sỉ thì ba việc trước là thường. Hai vợ chồng lấy nhau ăn ở tâm đắc. ông giáo Quỳ về sau bị đuổi việc vì dạy trẻ con không chịu dạy theo sách giáo khoa, cứ tục ngữ ca dao mà dạy. Một lần đi chấm thi ở Hải Phòng, thấy cô gái giang hồ đang bụng mang dạ chửa không có nơi sinh nở thì đưa về làm vợ hai, vợ cả cũng chẳng nói gì, còn cấp tiền cho để làm nhà riêng. Biết vợ hai phong tình, vẫn hay đi lại với nhiều người, ông giáo Quỳ cũng mặc, chỉ bảo Cô ngủ với ai thì nhớ đòi tiền, không có tiền thì lấy thóc hay lấy lợn vịt thế vào chử đừng ngủ không. Cả làng cười, ông giáo Quỳ cũng mặc. ông giáo Quỳ hay uống rượu, rượu vào thơ ra, có nhiều bài nghe cũng được. Ông giáo Quỳ ở nhà một mình, nằm võng đọc sách. Tôi và Quyên chào. ông giáo Quỳ vội nhỏm dậy pha nước. Chúng tôi ngồi ở chõng tre dưới dàn thiên lý. ông giáo hỏi Quyên Cô học đại học bên Mỹ thì lợi cho ai? Quyên bảo Lợi cho cháu, cho gia đình, cho đất nước . ông giáo Quỳ cười Đừng nghĩ đến lợi, nghĩ đến lợi nhọc mình. Chúng tôi ngồi ăn khoai sọ chấm muối vừng. Ông giáo Quỳ cầm quyển sách nhét xuống chiếu. Quyên bảo Bác làm thế nát mất sách rồi còn gì. Ông giáo Quý cười Nát thì thôi. Đọc sách để có tri thức. Có tri thức để sống đời mình có nghĩa. Nắng lọc qua dàn hoa rải những vệt nắng trên đất. Cả ông giáo Quỳ, cả Quyên, cả tôi đều cùng im lặng. Tôi muốn ra đồng. Quyên bảo Tôi về lần này rất muốn có một ấn tượng đúng về đồng quê. Anh đi đâu cho tôi đi với . Tôi lưỡng lự. Ông giáo Quỳ cười Cô ấy là đàn bà, sao lại chối từ đàn bà được? Chúng tôi chào ông Quỳ rồi ra đồng. Quyên bảo Cánh đồng rộng quá…Anh có biết cánh đồng bắt đầu từ đâu không? Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi Trong máu thịt tôi đã có cánh đồng Đứng bên ni đồng mênh mông bát ngát Đứng bên tê đồng bát ngát mênh mông. Tôi làm sao quên được nơi mẹ smh tôi Mẹ đã buộc cuống rốn tôi bằng sợi chỉ Tắm gội cho tôi bằng nước ao đầm trước Tôi biết khóc cững vô ích vì tất cả phải chờ đợi Phải chờ đợi từ tháng giêng đên tháng chạp Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà Tôi đi qua rất nhiều bờ ngang bờ dọc lầm lạc Đi qua rất nhiều gian khó, thô tục Tôi phải gieo trồng, gặt hái trên cánh đồng này Phải thuộc tên nhiều loài sâu bọ Còn cánh đồng thì khi mu a, khi năng. Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu Rồi ngày kia. Cái ngày xung tháng hạn Có một người đàn bà đến làm cho tôi đau Nàng dạy tôi thói bạc tình Bằng cách phản bội tôi như có thể phản bội một ngươi thường Tôi lẳng lặng chôn nỗi căm ghé cánh đồng. Trong mạch đất hiểm có hình lưỡi kiếm Những bông hoa mơ ước héo trên tay Công việc trở nên nặng nề hơn trước Tôi bán những sản vật làm ra với giá rẻ như bèo Đã có những mùa thu hoạch lớn Tôi cũng đã phá sản đôi lần Khi chiều xuống, hoàng hôn tĩnh lặng Tôi không kịp xem những vết sẹo trên người Chỉ biết rằng tôi đã mang thương tích Đêm Những vì sao thắp nến trên bầu trời Tôi đắp tấm vải liệm sực mùi đồng nội lên người Khi ấy, bạn ơi, bạn trẻ ơi Bạn hiểu cho tôi Tôi đã gắng làm cho cánh đồng phì nhiêu Tôi dẫn Quyên đi qua cánh đồng màu. Quyên hỏi. Giá nông phẩm quê anh năm nay tăng giảm thế nào? Tôi bảo Tăng 0,4%. Quyên bảo Chết thật! Thế mà hàng công nghiệp tăng 2,2%. Thế giá phân bón thế nào?. Tôi bảo Đạm tăng l,6%, lân tăng l,4% . Quyên hỏi Quê anh có dùng điện không? Tôi bảo Không. Quyên bảo Giá điện tăng 2,2%. Khoảng 10 giờ sáng là khoảng thời gian đông người trên đồng, có nhiều phụ nữ, trẻ em. Họ là những nguồn lao động chính. Đàn ông quê tôi phiêu lưu, lại nhiều ảo tưởng, họ ôm ấp ước mơ làm giầu nên hay bỏ ra ngoài thành phố tìm việc, đi buôn bán. Cũng có người lăn lộn vào tận mlen trong đào vàng, đào hồng ngọc. Khi về, tính tình họ đổi khác, họ trở nên những con thú dữ độc. Chú Phụng là người như vậy. Chương 3 Chuyện Chú Phụng Nguyễn Viết Phụng nhà nghèo, học hết cấp hai thì thôi học. Phụng làm nhiều nghề thợ cày, thợ xây, thợ mộc, đánh xe bò…Năm 20 tuổi Phụng đi bộ đội. Ba năm sau về làng lấy vợ. Vợ hơn Phụng bốn tuổi, đẻ liền ba năm bốn đứa con gái lần thứ ba sinh đôi. Phụng qưyết chí làm giàu, bán đồ đạc ở nhà lấy hai đồng cân vàng dắt lưng vào miền trong đào vàng. Bặt đi hơn nàm chẳng có tin tức gì, một hôm lù lù lrở về, người ngợm gay như xác ve, mặt phù như cái lệnh. Phụng năm liệt giường, vợ tần tảo thuốc thang nửa năm trời, nhà nghèo lại nghèo thêm. Sau trận ốm, Phụng tính nết đổi khác, có lần chém người bị thương dân làng ai cũng sợ. Cũng có khi Phụng bỗng khóc hu hu, cứ chắp tay lạy vợ lạy con. Về sau may bố mẹ vợ chuyển ra thành phố với người con trai ở nước ngoài về, cho không ngôi nhà với ba sào vườn nên đời thay đổi. Vợ Phụng là người tháo vát, chăn nuôi giỏi, lại có nghề làm đậu phụ. Bốn đứa con gái đứa nào cũng chịu khó giúp mẹ. Phụng ở nhà, dọn cho mình một mình một buồng, cấm vợ con vào. Thỉnh thoảng, Phụng vẫn đi lại với thím Nhung và mấy bà góa nạ dòng. Vợ con Phụng hỏi Sao anh cử xa lánh chúng tôi . Phụng bảo Báu gì mà ở gần tao. Thịt của tao rất độc. Cắn vào tao là cắn phải bả chó. Tao thương mẹ con mày, muốn mẹ con mày trong sạch đấy thôi . Tôi và Quyên đi qua đấu đất giữa đồng. ở dưới đấu đất, những bụi thầu dầu, rau dền gai mọc đầy. Có cả những cây ngô đồng hoa đỏ lá xanh. Quyên hỏi Sao gọi là đấu đất? Tôi bảo Ngày xưa, vua Ba Vành đào nơi này để đong quân, như ta đong thóc . Quyên hỏi Khoảng bao nhiêu người? Tôi bảo Hai mươi người một ngũ, hai trăm người một cơ . Tôi và Quyên đến khoảnh ruộng mẹ tôi và chị Ngữ đang dỡ lạc. Nước xăm xắp luống, nhấc cây lạc lên là bật gốc. Quyên xắn quần, cũng lội xuống bứt lạc. Quyên bảo Nhàn thật . Mẹ tôi bảo Cô ơi đấy là cô mới chỉ cưỡi ngựa xem hoa đấy thôi. Cô thử tính xem từ khi hạt lạc gieo xuống luống này, đến khi kết hạt mẹ con tôi vất vả lấm láp thế nào! Chị Ngữ ví von Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần . Tôi đạp phải ổ dế. Lấy cuốc bới ra, hàng nghìn con dế đất béo núc ních bò nhung nhúc. Mẹ tôi, chị Ngữ bỏ dỡ lạc bắt dế. Mẹ tôi xuýt xoa Ôi chao, phúc đức đầy nhà rồi các con ơi! Chị Ngữ mừng Cả nhà tôi rồi giàu nhất làng! Khoảng gần trưa, thấy ở đường Năm có đám đông kêu la khóc lóc đang chạy. Mẹ tôi tự dưng ngã chúi xuống ruộng, thất thanh gọi tôi Nhâm ơi Nhâm . Tôi và chị Ngữ sợ hãi, tưởng mẹ tôi trúng gió. Mẹ tôi mặt tái đi, tay giơ tới trước mặt như sờ nắn ai. Mẹ tôi gọi Nhâm ơi Nhâm. Sao em Minh con máu me đầy người thế này? Chị Ngữ lay mẹ tôi U ơi u, sao u nói gở thế? Có mấy người từ đám đông trên đường Năm bỗng chạy tách ra, băng qua đồng. Có ai gào to thảm thiết Bà Hùng ơi Hùng là tên bố tôi, mau ra mà nhận xác con đây này . Anh Ngọc tóc dựng ngược, cái anh nhà thơ mà tôi đã gặp ở ga chiều qua, chạy ở phía trước. Anh nói không ra hơi, tôi nghe loáng thoáng, chỉ biết rằng cái Minh em tôi và cái Mị con dì Lưu đèo nhau đi học về, qua ngã ba thì bị chiếc ô tô chở cột điện cán chết. Mẹ tôi lăn lộn giữa ruộng lạc đang dỡ nham nhở. Nhùng con dế đất bay quanh, bay một quãng lại bò, lại rúc đầu xuống bùn. Chị Ngừ đứng lặng, mắt ngơ ngẩn thất thần nhìn về dãy núi xa phía vòng cung Đông Sơn, tựa như không hiểu sao bỗng dưng trời cao phũ phàng đến thế? Anh Ngọc, tôi và Quyên chạy ra đường. Nước mắt tôi giàn giụa. Cái Minh mới 13 tuổi. Cài Mị mới 13 tuổi. Tôi còn chưa kịp làm cho cái Mị cái lồng lấy ổi. Còn cái Minh em tôi, con bé rất thảo, nó suốt đời mặc quần áo vá, nó bao giờ cũng dành cho tôi những quà ngon nhất. Chiếc xe tải chở ba cây cột điện đổ nghiêng ở bên vệ đường. Người ra dùng kích để nâng bánh xe, tìm cách kéo xác cái Minh và cái Mị ra. Cái Minh nằm nghiêng, cái Mị nằm sấp, đè lên nhau. Chiếc xe đạp rúm ró bên cạnh. Tôi đưa tay lên miệng để bịt âm thanh thổn thức trong cổ cứ thế bật ra. Tôi thương các em tôi quá. Rất đông những con ruồi bu quanh hai lỗ mũi cái Minh, cái Mị. Anh Ngọc nhà thơ không biết lấy ở đâu ra nắm hương đốt huơ huơ trước mặt hai đứa, khói hương quẩn lại một chỗ không bay lên được. Tôi sẽ không kể gì về cái chết của cái Minh, cái Mị nữa. Chiều hôm ấy phải làm đám ma cho hai em tôi. Cũng giống như mọi đám ma ở làng, ở đây có rất nhiều nước mắt, nhiều lời than vãn. Tôi và một thanh niên trong làng cáng dì Lưu ra tận ngoài đồng rồi lại cáng về. Quyên cũng đi theo. Anh Ngọc có làm bài thơ về sự việc này. Tôi không hiểu sao anh làm thơ được ở trong hoàn cảnh nhẫn tâm như thế. BàI THơ ĐáM MA TRINH Nữ TRêN ĐồNG CủA NHà THơ Bùi VăN NGọC Tôi đi đưa đám ma trinh nữ trên đồng Cái chết trắng, cái chết trắng xóa Những con bướm trắng, những bông hoa ttrắng Nhũng tâm hồn trắng, những cuộc đời trắng. ơi hời, tôi đưa đám ma trinh nữ trên đồng Tôi đào huyệt, dài một mét tám, ngang bảy mươi phân Tôi đào huyệt, sâu một mét rưỡi ơi hời, tôi chôn vào đây tinh thần sơ nguyên ơi hời, này là vật hiến tế cho đất đai Trinh nữ vẹn tuyền, cái chết trắng xoá Những con bướm trắng, những bông hoa trắng. Những tâm hồn trắng, những cuộc đời trắng ơi hời, tôi lót vào ngực bài thơ trắng tinh Bẻ một cành xanh mà che mắt nhìn Gió phơ phất, hồn bay phơ phất Hồn bay lên, trên cánh đồng người Tôi đi đưa đám ma trinh nữ trên đồng Trong ngày như thế, trong một ngày dưng Trong ngày như thế, trong một ngày thường. ơi hời, lôi đi lẫn trong đám đông, trong số đông trong lòng người, trong nỗi đau thương, trong thê lương, trên quê hương… Chiều hôm sau tôi đưa Quyên ra ga. Dì Lưu nói mãi nhưng Quyên cứ nằng nặc đòi về. Chúng tôi đi theo con đường đất men bên rìa làng qua đầm sen rồi dọc bờ mương ngược về huyện lỵ. Qua đầm sen chúng tôi ngồi nghỉ. Quyên bảo Tôi ở đây ba ngày mà sao dài quá. Ga chiều huyện lẻ vắng vẻ. Vẫn chỉ có khoảng hơn chục người đứng ở sân ga đợi tàu. Vẳng lại tiếng cát xét nhà nào đang mở. Tàu vào ga. Hành khách lần lượt lên tàu. Mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Một thanh niên đeo kính trắng, tay xách va li. Hai cặp vợ chồng già. Quyên. Quyên bảo Anh gì ơi! Tôi đi nhé! Cám ơn anh đã đi tiễn tôi. Tôi đứng ở sân ga rất lâu. Tàu đi khuất. Tôi linh cảm thấy không bao giờ còn gặp Quyên nữa. Tôi qua cửa soát vé về làng. Nhìn phía trước chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng, xa mờ là vòng cung Đông Sơn. ở đấy tôi có rất nhiều thương nhớ. Ngày mai trời nắng hay mưa? Thực ra bây giờ với tôi trời nắng hay mưa thảy đều vô nghĩa. Tôi là Nhâm. Ngày mai tôi mưòi bảy tuổi rồi. Có phải đấy là tuổi đẹp nhất đời người ta không? Truyện ngắn hay tại
Trang 1 Trang 2 Trang 3 Trang 4Kế tiếp -Quảng Cáo-Nguyễn Huy Thiệp 29/4/1950 – 20/3/2021 sinh tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Năm 1980, ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó, làm việc tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu. Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là người am hiểu Nho học và mẹ, vốn là người sùng Đạo Phật. “Tôi sinh ở nông thôn, mẹ tôi là nông dân. Thời thơ ấu của tôi cũng khổ, không chỉ bản thân tôi mà cả xã hội như vậy. Tôi đọc sách, ước ao của tôi là mình làm việc gì đấy mà lớn lên mình dựng được ngôi nhà cho khỏi dột, để mẹ ở cho khỏi khổ. Sau này nhờ viết văn mà tôi làm được ngôi nhà. Có thể nói tôi thành nhà văn từ mơ ước làm nhà cho mẹ cũng được.” Ông xuất hiện trên văn đàn Việt Nam với một số truyện ngắn ấn tượng đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Sở trường của ông là mảng lịch sử, hơi hướng huyền thoại, xã hội Việt Nam đương đại, và xã hội làng quê. Ông là nhà văn hiện đại có tên tuổi trong địa hạt truyện ngắn và tiểu thuyết, với cái nhìn thẳng vào những vấn đề gai góc của cuộc sống và bản năng trần tục của con người. Các truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Huy Thiệp Tướng về hưu, Tâm Hồn Mẹ, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Con gái thủy thần, Tiểu Long Nữ, Chảy Đi Sông Ơi, Trương Chi, Những Bài Học Nông Thôn, Thương Nhớ Đồng Quê, Tội Ác và Trừng Phạt, Tuổi 20 yêu dấu,… Thương nhớ đồng quê Tác giả Nguyễn Huy Thiệp MỞ ĐẦU Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. i trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng. Xa mờ là vòng cung ông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi lên đấy phải năm mươi cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về. Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa. Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa. Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lấp ra-đa với máy thông tin, mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo “Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người”. Chú Phụng thì khác, chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú cháu với nhau “Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các Thánh nhân, có yêu quái”. Nhà chú Phụng toàn phụ nữ mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gái. Chú Phụng đùa”Chú đẹp giai nhất nhà”. Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quỳ dạy cấp một ở làng. Hồi trước tôi học ông giáo Quỳ. Ông giáo Quỳ có nhiều sách. Mọi người vẫn bảo ông là “đồ gàn”, lại bảo ông là “lão dê già”, “Quỳ dê”. Ông giáo Quỳ có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị dâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. Ông giáo Quỳ lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì. Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả sân. Tôi gọi cái Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em tôi người nhỏ quắt, đen đúa nhưng mắt sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi ướt đầm hai bên vạt áo. Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa uống ừng ực. Nước mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ tôi không ăn được thịt mỡ. Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên ngây ngất. Mùi lúa ngột ngạt. ường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi đi qua cổng nhà dì Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi”Anh Nhâm!”. Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi”Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội”. Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay. Chú Sang chồng dì Lưu đang công tác bên Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai chú Sang ngoài Hà Nội có con gái là Quyên đi học đại học bên Mỹ. Hồi bé, Quyên đã có lần về thăm quê. Tôi cầm bức điện đọc”Cô Lưu cho người ra ga đón cháu Quyên 14 giờ ngày… “. Tôi hỏi cái Mị”Chiều nay à?”. Cái Mị gật đầu. Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi”Nhâm giúp dì ra đón em Quyên nhé”. Tôi bảo”Nhà cháu đang gặt”. Dì Lưu bảo “ể đấy đã. Gặt ở khoảnh nào?”. Tôi bảo”Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng”. Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ tôi. Cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn, đậm người hơn. Nó hay nói, hay làm nũng. Cái Mị bảo”Anh Nhâm ơi, hôm nào anh làm cho em cái lồng lấy ổi”. Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lòng hơi giống hom giỏ, có hàm răng mở ra. Tôi bảo”Em kiếm nứa đi”. Cái Mị bảo”Em có rồi. Mai anh làm nhé”. Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuya. Cái Mị bảo”Mai đấy”. Tôi bảo”Ừ”. Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi gãy cành có lần suýt ngã. Chú Phụng đọc tờ điện báo nói “Sao lại bưu cục Thế là nghĩa lý gì?”. Mẹ tôi bảo”Dì Lưu đã nhờ thì Nhâm đi đi. Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc”. Tôi bảo cái Mị”Em về đi. Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn”. Cái Mị đi về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần trên cánh đồng xa tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái. Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. ất trên mặt ruộng ẩm ướt. Những con châu chấu nhỏ xíu nhảy lách tách. ến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra chỉ có bốn người nhà tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhổ gai ở chân. Chị Ngữ đội nón, khăn trùm mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về dãy núi xa phía vòng cung ông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng hỏi”Mày về luôn chứ?”. Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầu. Hai chú cháu tôi mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi sau. Gánh lúa rất nặng. Tôi thấy chân mình run lắm nhưng cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước. 2000 bước. Cứ thế. Cứ thế mãi. Rồi cũng đến nhà. Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng mang cơm ra đồng cho mẹ tôi và chị Ngữ. Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không mệt tôi đánh thông đấu gạo. Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc màu của bố tôi. Tôi sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo”Cháu cầm lấy ít tiền”. Dì Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hơn cân thóc. Dì Lưu hỏi “Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không?”. Tôi gật đầu, thực ra tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra. Tôi đạp xe ra ga. Từ làng tôi đến ga tám chín cây số. Lâu lắm tôi mới đi xa thế này. Con đường đất men theo rìa làng, qua đình làng, qua đầm sen rồi theo bờ mương ngược về huyện lỵ. Tôi nghĩ. Những ý nghĩ của tôi mông lung. Tôi nghĩ Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ Sự bất lực của hình thức biểu đạt Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất Những số phận hiu hắt đầy mặt đất Bao tháng ngày trôi đi Bao kiếp người trôi đi Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này Nhặt được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôi Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi Nhặt được niềm hy vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôi Và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê Tôi rốt ráo bắn tỉa từng ý nghĩ Tìm cách săn đuổi cho nó vào chuồng Và tôi hú gọi trên cánh đồng lòng Tru lên như con sói hoang Tôi gắng gặt một lượm sống Bó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ Tôi hú gọi trên cánh đồng người Tôi nhặt những ánh mắt đời Hòng dõi theo ánh mắt tôi Dõi vào cõi ý thức Cõi ý thức mênh mông xa vời Dầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi. Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã cánh đi trên sân ga. Có khoảng chục người chờ ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở băng cát-xét nhà nào đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi”Người đi qua đời tôi, có nhớ gì không người? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em?”. Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hành, quần áo, giầy dép, đường sữa, thuốc lá. Ô-tô chạy xuôi chạy ngược. Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng. Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to”Tàu về”. Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên”Tàu về”. Tiếng còi tàu hăm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng. Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy ngược chạy xuôi. Tiếng rao hàng chen nhau”Nước đây ! Ai bánh nào ! Ai nước nào ! Ai bánh nào ! Ai nước nào !”. Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngổn ngang ở ngay bậc cửa. ây là ga lẻ. ồng quê tôi vô danh. Nơi tôi đứng đây vô danh. Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé. Tôi nhận ra mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên cao, gầy, tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người này. ấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng già. Quyên. Quyên xõa tóc, mặt áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi. Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra. Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngay. Quyên bảo “Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không?”. Tôi bảo”Vâng”. Quyên cười”Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu? Anh tên gì?”. Tôi bảo”Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng”. Quyên hỏi “Thế anh có họ hàng gì với tôi không?”. Tôi bảo”Không”. Quyên gật đầu”Tốt. Cô Lưu thuê anh à?”. Tôi nhìn cái bóng tôi sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê, làm mướn. Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi nhau lướt trên mặt đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì có nghĩa. Quyên hỏi”Nhà anh cấy bao nhiêu sào? Mỗi sào bao nhiêu thóc? ược bao nhiêu tiền?”. Tôi bảo”Mỗi sào được hơn ba nồi, khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư”. Quyên nhẩm”Hai mươi triệu tấn thóc cho sáu mươi triệu người”. Tôi bảo “Có ai chỉ nghĩ đến ăn”. Qua đầm sen gặp sư Thiều. Sư Thiều chào. Tôi chào lại. Sư Thiều bảo”Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu”. Tôi bảo”ể lúc nào qua chùa con xin”. Tôi thú chơi hoa. Ông giáo Quỳ bảo”ấy là thú của kẻ biết đời”. Sư Thiều bảo”Có lấy ít sen về cắm lọ không?”. ầm sen của Chùa mùa này nhiều hoa. Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc thuyền thúng chỉ vừa người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo”Tôi muốn đi thuyền”. Tôi gọi sư Thiều. Sư Thiều ghé thuyền vào. Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên trèo lên thuyền. Tôi đẩy thuyền ra. Sư Thiều bảo”Chiều người lụy ta”. Tôi cười. Tôi và sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi rỗng hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không. Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư Thiều hỏi “Ngon không?”. Quyên bảo”Ngon”. Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chào. Quyên chào lại. Quyên ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo. Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi về sư Thiều. Trang 1 Trang 2 Trang 3 Trang 4Kế tiếp
by Đỗ Phương Thảo Vào sáng thứ ba, ngày 9/12/2008, lớp Điện ảnh K4 chúng tôi vinh dự được đón nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đến thỉnh giảng. Buổi học ngắn ngủi mà đầy thú vị, xoay quanh các vấn đề Văn học và Điện ảnh. Nhân dịp này, cũng xin được lạm bàn đôi chút về truyện ngắn “Thương nhớ đồng quê” của ông và bộ phim chuyển thể của ĐD Đặng Nhật Minh. Truyện ngắn “Thương nhớ đồng quê” của Nguyễn Huy Thiệp được viết năm 1992, nằm trong chùm truyện viết về nông thôn của nhà văn cùng với “Những bài học nông thôn”, “Chăn trâu cắt cỏ”. Truyện là một thế giới biểu tượng lay động đến phần tâm linh của mỗi người về một cánh đồng mẹ xưa cũ, về đồng quê – một thiên đường đã mất và về cái bản nguyên thuần khiết của chính mình. Năm 1995, nhận lời mời của Đài truyền hình NHK Nhật Bản đặt làm một bộ phim về Việt Nam để chiếu tại Tokyo trong Liên hoan phim châu Á lần thứ nhất của NHK, đạo diễn Đặng Nhật Minh đã không phải mất nhiều thời giờ tìm kịch bản vì ông đã có sẵn trong tay kịch bản phim “Thương nhớ đồng quê” dựa theo truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “Thoạt tiên tôi thấy ở truyện ngắn này một không gian điện ảnh đầy gợi cảm …. Dưới con mắt tôi đó là truyện ngắn giàu chất điện ảnh nhất của Nguyễn Huy Thiệp” Đặng Nhật Minh hạnh phúc với những ngày thực hiện “Thương nhớ đồng quê”, Nguồn Khi viết kịch bản ông đã bổ sung thêm mối quan hệ giữa ba nhân vật Quyên, Nhâm, Ngữ để tạo ra cái lõi kịch tính cần thiết. Đồng thời, theo gợi ý của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, ông cũng kết hợp thêm truyện ngắn “Những bài học nông thôn” vào bộ phim. Nhưng, dù là “phỏng tác”, “dựa theo” hay chỉ lấy tác phẩm văn học là nguồn chất liệu gợi hứng, bộ phim chuyển thể cũng không thể bỏ qua những hình ảnh biểu trưng chính, chủ đạo trong tác phẩm văn học. Trong số các hình ảnh biểu trưng, Đồng quê cánh đồng đã trở thành biểu tượng chủ đạo trong cả tác phẩm văn học và bộ phim này. Trong cách cảm nhận của người Việt, cánh đồng gắn liền và là biểu tượng của quê hương. Nó còn gợi ra không gian sống hoang dã, nơi con người tự nhiên được sống như chính nó, thuận theo bản năng, hài hoà với vũ trụ. Cánh đồng trở thành cánh đồng mẹ, nơi chốn nương náu và có khả năng ôm ấp, lưu giữ những hoài niệm bất tận, những cái đã mất của con người “Thương nhớ đồng quê” là một niềm hoài niệm, một nỗi đau, niềm thương nhớ xót xa về một thế giới đã mất và con người tìm lại như thể tìm lại cái bản nguyên của chính mình. Điều này chính là sự gặp gỡ trong nhận thức về biểu tượng Cánh đồng của Nguyễn Huy Thiệp và Đặng Nhật Minh. Có thể thấy trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, biểu tượng Đồng quê đã vận động qua nhiều biến thể, chủ yếu theo hai mối quan hệ 1. Phân hoá biểu tượng trung tâm được triển khai thành một hệ thống các yếu tố cùng cấp độ nhưng có những hướng nghĩa khác nhau “đồng quê”, “làng quê” xuất hiện trong nhan đề, trong lời của một người thành phố là Quyên, trong lời giới thiệu về nhân thân của Nhâm “Tôi sinh ra ở làng quê…”; “cánh đồng”, “cánh đồng màu”, “cánh đồng lòng”, “cánh đồng người”, “cánh đồng hoang”… Cánh đồng xuất hiện lặp lại như một ám gợi, lúc đầu trong sự giới thiệu và mô tả trực tiếp của nhân vật Tôi, trong những câu chuyện về giá nông phẩm, về sự nhàn nhã hay cay đắng trong vun trồng… Càng về sau, nó càng đi dần từ thế giới thực vào thế giới tâm tưởng của nhân vật trong những ý nghĩ đã trào lên thành thơ của Tôi, để rồi cuối cùng trở thành một tượng trưng trong kết thúc bi kịch “Đám ma em gái trên đồng”. 2. Chi tiết hoá cánh đồng bao chứa hàng loạt các yếu tố thuộc cấp độ nhỏ hơn như Lúa, mùi lúa; Đất, bùn non; Bờ ruộng, đường mương; Rơm rạ, chân rạ; Ếch, côn trùng, châu chấu, ổ dế; Tiếng sáo diều; Giá thóc, giá nông phẩm… Đó chính là một thế giới nông thôn giản dị, thuận theo tự nhiên mà mỗi sự vật lại có đời sống riêng của nó. Nét đặc biệt trong ngôn ngữ Nguyễn Huy Thiệp là sự kết hợp các khái niệm với các tín hiệu thuộc về đồng ruộng như một cách “đồng đất hoá” các khái niệm, các cảm xúc khiến cho bản thân những biến thể này cũng có tiềm năng chuyển hoá thành những biểu tượng, như “cánh đồng hoang của mê muội và cái ác nhởn nhơ”, “cánh đồng lòng”, “gặt một lượm sống”, “cánh đồng người”, “bờ ngang bờ dọc lầm lạc”, “tấm vải liệm sực mùi đồng nội”… Tất cả các biến thể từ vựng đó làm nên một hệ biểu tượng về đồng quê rất dồi dào cả về ý nghĩa và cách thức thể hiện. Chuyển hoá vào ngôn ngữ điện ảnh, biểu tượng Đồng quê về cơ bản vẫn sử dụng những biến thể chính của tác phẩm văn học nhưng thông qua chất liệu hình ảnh. Cánh đồng lúa chín với sự trợ giúp của máy quay khi thì hiện lên toàn cảnh rộng lớn cánh đồng, làng xóm, núi Ba Vì mờ xa… trong khuôn hình tĩnh, máy quay cố định; khi thì được quay di chuyển, trôi lướt theo cái nhìn và ý nghĩ miên man của một chàng trai đang đạp xe bạt gió trên đường làng; khi làm nền cho nhân vật trong một vài trung cảnh; khi lại cận cảnh trực tiếp từng cây lúa đổ rạp theo chiều gió, từng gánh lúa, từng hạt thóc… dưới bàn tay con người, đặc biệt là ba cận cảnh rất đặc sắc Cận cảnh đôi ếch ở cánh đồng đêm mưa, cận cảnh ổ dế trên cánh đồng lạc và cận cảnh tổ chim non trên cánh đồng mía. Có lẽ chính âm nhạc và hình ảnh trong phim bằng sự cụ thể của mình đã làm cho người xem hiểu nhiều hơn về những nhọc nhằn, những số phận hắt hiu đầy mặt đất qua những cảnh người nông dân gặt lúa, gánh lúa, đập thóc, và cả những bước chân trên sân rẽ thóc rối bời… Đó chính là sự hữu hình hoá của những “mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê tôi”. Sự kết hợp hài hoà giữa toàn cảnh và cận cảnh đã mang lại cái nhìn đa chiều về cánh đồng, cho người xem vừa thấy được sự mênh mông của cảnh vừa cảm nhận được chiều sâu trong từng khuôn hình. Tuy nhiên, đôi khi hình ảnh cũng không đủ sức lột tả được những ý nghĩa biểu trưng, phim đã phải sử dụng đến sự trợ giúp của ngôn từ thông qua những lời dẫn chuyện của Nhâm hoặc cảnh Minh đọc bài thơ “Cánh đồng quê tôi”… Như phần lớn các biểu tượng khác, biểu tượng cánh đồng cũng lưỡng tính, bao gồm “phần đêm và phần ngày” theo cách nói của J. Chevalier. Cả truyện ngắn và phim đều làm nổi bật được hai mặt ý nghĩa của biểu tượng này * Cánh đồng – không gian sống tự nhiên, chốn bình yên nương náu Trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, nét ý nghĩa này ngay từ đầu đã được khẳng định trong lời giới thiệu của Nhâm như một hàm ý xác nhận về nhân thân, về gốc gác “Tôi là Nhâm. Tôi sinh ra ở làng quê, lớn lên ở làng quê”, sau đó đã trào lên thành thơ như một sự ám gợi, được khơi gọi về từ một câu hỏi hồn nhiên“Cánh đồng bắt đầu từ đâu?” “Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi – Trong máu thịt tôi đã có cánh đồng – … Tôi làm sao quên được nơi mẹ sinh ra tôi – Mẹ đã buộc cuống rốn cho tôi bằng sợi chỉ – Tắm gội cho tôi bằng nước ao đầm trước…”. Từ cánh đồng máu thịt của quê hương đã được trừu tượng hoá thành “cánh đồng lòng”, “cánh đồng người” – không gian của sự hoang dã, tự nhiên, của những bản năng nguyên sơ của con người, nơi vang vọng những tiếng hú gọi “tru lên như sói hoang”, “những lời rên rỉ côn trùng”, “tiếng sáo mục đồng nhỏ nhoi, phiêu bồng”… Trong phim, ý nghĩa này được thể hiện bàng bạc, từ đầu đến cuối luôn luôn hiện lên hình ảnh cánh đồng và làng quê, nơi các nhân vật sinh ra và lớn lên, ra đi và trở lại. Nhưng thể hiện được rõ nét nhất là cảnh Nhâm đi bắt ếch đêm mưa, giao hoà với hồn quê và vũ trụ và cảnh Minh đọc bài thơ “Cánh đồng quê tôi”. Bên cạnh đó, ý nghĩa này cũng được thể hiện qua lời của các nhân vật Quyên “Những ngày sống nơi đất khách quê người, chị không biết mình là ai, mình ở đâu tới nhưng bây giờ chị hiểu rằng, dù đi đâu, ở đâu, chị cũng là một phần của mảnh đất này”; Lá thư Nhâm gửi lại làng quê “Tôi tên là Nhâm. Tôi thương nhớ làng quê của tôi. Và tôi sẽ trở về…”. * Cánh đồng – không gian trú ngụ của “bóng tối” Cánh đồng còn là không gian trú ngụ của bóng tối với bao điều khuất lấp đáng buồn, của cuộc sống đói nghèo lam lũ, của tội ác nhởn nhơ, của mê muội… Nhân vật Tôi trong những suy nghĩ thành thơ của mình đã không nguôi trăn trở về “nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất – sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất – những số phận hắt hiu đầy mặt đất”, “mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê”… Ý nghĩa “bóng tối” của cánh đồng được Nhâm cảm nhận rõ nét trong đêm mưa ngoài ruộng và trở thành biểu tượng “cánh đồng hoang của mê muội và cái ác nhởn nhơ” trong lời thơ. Gắn với nó là hàng loạt những chi tiết đầy ám ảnh Sự vô danh của những con người của đồng quê, có tên nhưng không có thân phận, đi đâu cũng bị nhìn như kẻ làm thuê “đồng quê tôi vô danh, nơi tôi đứng đây vô danh”; Nhâm luôn xác định “Tôi là Nhâm” nhưng Quyên không bao giờ nhớ tên, chỉ gọi “Anh gì ơi”; Chi tiết Nhâm đi bắt ếch về, qua nhà thím Nhung biết được quan hệ vụng trộm của thím Nhung và chú Phụng; Cánh đồng chôn giấu nỗi căm ghét vì một bội phản không được nói rõ ràng ở lời thơ 3, nơi có những “bờ ngang bờ dọc lầm lạc” và chứng kiến không ít những lần “phá sản”, “những vết sẹo” Tôi mang trên người… Như vậy, rõ ràng Nguyễn Huy Thiệp đã có một cái nhìn không hề đơn giản về đồng quê Nhìn ở phần sáng, cánh đồng là nơi nuôi dưỡng cái tự nhiên, sự hoà hợp, tính Thiện và truyện ngắn như một nỗi “thương nhớ đồng quê”, một sự kêu gọi trở về. Nhưng nhìn ở phần tối, đồng quê cũng là nơi nuôi dưỡng cái ác, cái xấu, cái tăm tối, vô nghĩa. Kết thúc truyện ngắn là cảm giác “vô nghĩa” của Tôi, vô nghĩa vì cái có nghĩa đã mất, vô nghĩa vì không còn tương lai, không cần biết mai nắng hay mưa, chỉ còn dai dẳng nỗi nhớ thương. Tâm trạng hoài nhớ này trở thành phổ biến, không chỉ với tôi mà với cả chị Ngữ, đến nỗi mà ngay khi con người đi trên mảnh đất của làng vẫn hình dung về làng như từ một không gian khác, và luôn hướng đến một chân trời nào đó nơi có vòng cung Đông Sơn… Bộ phim cũng thể hiện được cả mặt phải lẫn mặt trái của làng quê Việt Nam ở giai đoạn chuyển mình. Cuộc sống nông thôn chứa đựng biết bao nghịch lí. Thân phận của những con người ở nông thôn – những người nuôi sống toàn xã hội, lại thật nhỏ bé, lặng lẽ, vất vả, thiệt thòi. Những người đàn ông lần lượt bỏ ra thành phố hoặc lang bạt tứ xứ kiếm sống. Những người phụ nữ sống trong cô đơn, khắc khoải chờ chồng không hi vọng. Kết thúc phim có phần còn bi kịch hơn nguyên tác, chẳng có cánh cửa nào mở ra cho cuộc sống đầy nhọc nhằn này. Tai nạn oan nghiệt, đám ma trinh nữ thương tâm. Quyên sinh ra ở làng quê, cô vẫn muốn trở về đây chứ? Vì sao cô nói “không biết”? Ngữ trở về sau chuyến tìm chồng trong vô vọng để rồi lại tiếp tục những chuỗi ngày âm thầm, vò võ. Nhâm ra đi trong một hoàn cảnh không thể tồi tệ hơn mẹ đau, em mất, chị dâu cô đơn tủi hận, gian nhà trống hoác trống hơ. Cuộc sống làng quê Nhâm luôn mong nhớ rồi sẽ tiếp tục ra sao? Ta gặp lại sự bế tắc của “Cánh đồng bất tận”. Nông thôn muôn đời vẫn thế, mãi mãi nằm sau luỹ tre làng, “bao tháng ngày trôi đi, bao kiếp người trôi đi, sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được…”. Biểu tượng Đồng quê trong truyện ngắn và phim đều được dựng lên trong quan hệ đối lập với Thành thị Thành phố. Ở truyện ngắn, thành phố hiện hình cụ thể qua những tín hiệu Tín hiệu nhân vật – Quyên, cô gái thị thành “muốn có ấn tượng đúng về đồng quê” nhưng lại chỉ có cái nhìn của người ngoài cuộc, quen sống ở thị thành. Cô chỉ có thể hỏi về giá cả nông sản, chỉ nhìn thấy sự nhàn nhã của người dân quê. Cô không thuộc về thế giới đó nên tất nhiên cô phải trở lại thành phố mà không một chút lưu luyến với đồng quê. Tín hiệu hình ảnh vật chất bức điện của Quyên – chú Phụng “Sao lại bưu cục SNN? Thế là nghĩa lí gì? Bọn thành phố nhiều mưu kế lắm.”; ga chiều huyện lỵ vắng vẻ bị tiếng còi tàu hăm doạ, chói óc đến từ thành phố làm cho rối rít, cuống cuồng; đặc biệt là chiếc xe tải chở cột điện gây ra cái chết thảm thương của hai em Minh, Mị. Đó là hình ảnh của thế giới văn minh đang chiếm lĩnh thế giới tự nhiên của đồng quê. Trong kết hợp này, cánh đồng lại mang thêm nét nghĩa mới nó như một thân thể yếu đuối có thể ngẫu nhiên bị cái cơ thể thành thị xe tải chèn chết. Cánh đồng là cuộc sống tự nhiên bị tiêu diệt ở những giai đoạn giao tranh. Vì thế mà cánh đồng trở thành “thương nhớ”. Bộ phim đã thổi vào mối quan hệ này một sự phát triển kịch tính, thông qua tuyến nhân vật đối lập Ngữ và Quyên – hai người đàn bà, một đại diện cho “truyền thống”, một đại diện cho “hiện đại”. Ngữ là hiện thân của người đàn bà nông thôn truyền thống. Cái nhìn của chị là của người nằm trong lòng cuộc sống khó khăn, đơn điệu, bức bối của làng quê. Sự vất vả, cô đơn, buồn bã và nỗi khát khao hạnh phúc khiến chị luôn sống trong sự giằng co căng thẳng giữa sự chịu đựng và những thôi thúc muốn phá tung mọi bó buộc của không gian chật hẹp ở làng quê. Quyên lại là một luồng gió thổi về làng từ thế giới hiện đại. Cô có cái nhìn gần như ngược chiều với Ngữ về làng quê – cái nhìn từ ngoài vào, vừa xa lạ vừa gắn bó, vừa ngỡ ngàng vừa cảm thông. Nhưng những con người xa quê như cô dù ở đâu cũng có nỗi khắc khoải nhớ quê, hướng về quê mẹ. Sau có mấy ngày ở quê mà cô Quyên trong bộ đồ trắng lúc mới xuống tàu ở đầu phim và cô Quyên trong sắc áo tang đen lúc chuẩn bị lên tàu ra đi ở cuối phim là hai con người khác hẳn, cả bề ngoài lẫn tâm trạng bên trong. Đây là điểm khác biệt cơ bản của phim và truyện ngắn khi xây dựng hình ảnh Quyên – cô gái thị thành. Bộ phim đem đến một thông điệp mới đồng quê và thành phố, truyền thống và hiện đại có những nét tương phản, ngược chiều nhau nhưng cũng có nhiều sự tương đồng, gần gũi nhau. Trong cảnh đám tang, hai người phụ nữ này và cả làng dường như xích lại gần nhau trong nỗi đau chung. Họ còn có một điểm chung là suốt đời khát khao và đi tìm hạnh phúc nhưng không đạt được. Tìm hiểu cụ thể việc sử dụng biểu tượng Đồng quê cánh đồng trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp và bộ phim chuyển thể của Đặng Nhật Minh, có thể thấy, hầu hết các biểu tượng chủ đạo trong tác phẩm văn học đều được điện ảnh tái sử dụng, kế thừa ở những nét nghĩa chính. Tuy vậy, văn học và điện ảnh vẫn có sự khác nhau trên phương diện các biến thể, các cấp độ biểu hiện ý nghĩa và các mối quan hệ kết hợp của biểu tượng. Điều này làm nên nét sáng tạo, đặc trưng riêng của văn học và điện ảnh ngay cả khi khai thác cùng một biểu tượng. Nguồn ảnh Posted in Critical Writing, Recent Posts Tags dang nhat minh, literary adaptation, Nguyen Huy Thiep, NHK, phim viet nam, Vietnamese Film
Tài liệu "Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp" có mã là 457006, file định dạng pdf, có 13 trang, dung lượng file 112 kb. Tài liệu thuộc chuyên mục Tài liệu phổ thông > Ngữ văn > Ngữ Văn Tham Khảo. Tài liệu thuộc loại ĐồngNội dung Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy ThiệpTrước khi tải bạn có thể xem qua phần preview bên dưới. Hệ thống tự động lấy ngẫu nhiên 20% các trang trong tài liệu Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp để tạo dạng ảnh để hiện thị ra. Ảnh hiển thị dưới dạng slide nên bạn thực hiện chuyển slide để xem hết các lưu ý là do hiển thị ngẫu nhiên nên có thể thấy ngắt quãng một số trang, nhưng trong nội dung file tải về sẽ đầy đủ 13 trang. Chúng tôi khuyễn khích bạn nên xem kỹ phần preview này để chắc chắn đây là tài liệu bạn cần preview Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy ThiệpNếu bạn đang xem trên máy tính thì bạn có thể click vào phần ảnh nhỏ phía bên dưới hoặc cũng có thể click vào mũi bên sang trái, sang phải để chuyển nội dung sử dụng điện thoại thì bạn chỉ việc dùng ngón tay gạt sang trái, sang phải để chuyển nội dung slide. Click vào nút bên dưới để xem qua nội dung tài liệu Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp sử dụng font chữ gì?File sử dụng loại font chữ cơ bản và thông dụng nhất Unicode hoặc là TCVN3. Nếu là font Unicode thì thường máy tính của bạn đã có đủ bộ font này nên bạn sẽ xem được bình thường. Kiểu chữ hay sử dụng của loại font này là Times New Roman. Nếu tài liệu Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp sử dụng font chữ TCVN3, khi bạn mở lên mà thấy lỗi chữ thì chứng tỏ máy bạn thiếu font chữ này. Bạn thực hiện tải font chữ về máy để đọc được nội thống cung cấp cho bạn bộ cài cập nhật gần như tất cả các font chữ cần thiết, bạn thực hiện tải về và cài đặt theo hướng dẫn rất đơn giản. Link tải bộ cài này ngay phía bên phải nếu bạn sử dụng máy tính hoặc phía dưới nội dung này nếu bạn sử dụng điện thoại. Bạn có thể chuyển font chữ từ Unicode sang TCVN3 hoặc ngược lại bằng cách copy toàn bộ nội dung trong file Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp vào bộ nhớ đệm và sử dụng chức năng chuyển mã của phần mềm gõ tiếng việt Unikey. Từ khóa và cách tìm các tài liệu liên quan đến Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy ThiệpTrên Kho Tri Thức Số, với mỗi từ khóa, chủ đề bạn có thể tìm được rất nhiều tài liệu. Bạn có thể tham khảo hướng dẫn sau đây để tìm được tài liệu phù hợp nhất với bạn. Hệ thống đưa ra gợi ý những từ khóa cho kết quả nhiều nhất là Thương nhớ đồng quê, hoặc là Thương nhớ đồng quê tìm được nội dung có tiêu đề chính xác nhất bạn có thể sử dụng Thương nhớ đồng quê Nguyễn có thể gõ có dấu hoặc không dấu như Thuong nho dong que, Thuong nho dong que Nguyen, Thuong nho dong que Nguyen Huy, đều cho ra kết quả chính xác. Thương nhớ đồng quê Nguyễn Thương nhớ Nguyễn Thiệp đồng Nguyễn Huy Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thương Thương nhớ đồng nhớ đồng quê Thương nhớ Huy Thương nhớ đồng quê quê Các chức năng trên hệ thống được hướng dẫn đầy đủ và chi tiết nhất qua các video. Bạn click vào nút bên dưới để xem. Có thể tài liệu Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp sử dụng nhiều loại font chữ mà máy tính bạn chưa có. Bạn click vào nút bên dưới để tải chương trình cài đặt bộ font chữ đầy đủ nhất cho bạn. Nếu phần nội dung, hình ảnh ,... trong tài liệu Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp có liên quan đến vi phạm bản quyền, bạn vui lòng click bên dưới báo cho chúng tôi biết. Gợi ý liên quan "Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp" Click xem thêm tài liệu gần giống Chuyên mục chứa tài liệu "Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thiệp" Tài liệu vừa xem Thương nhớ đồng quê Nguyễn Thương nhớ đồng quê Thương nhớ đồng quê Nguyễn Huy Thương nhớ Thương nhớ đồng
Thương nhớ đồng quê – truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được viết vào năm 1992 và chuyển thể thành phim vài năm sau đó. Đúng như tên tác phẩm, bối cảnh của truyện là những hình ảnh bình dị, mộc mạc về làng quê trong suy nghĩ, trong tự sự của chàng trai 17 tuổi – Nhâm.“Mãi đến tận mờ sáng tôi mới lần về đến rìa làng. Không khí rất sạch. Làng quê quen thuộc, yên tĩnh. Sau mưa, quang cảnh hiện lên vừa đỏm dáng, vừa tinh khiết”“Nhìn phía trước chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng, xa mờ là vòng cung Đông Sơn. Ở đấy tôi có rất nhiều thương nhớ.” Không dừng lại ở việc “tả cảnh”, tác giả còn đi sâu hơn vào đời sống của từng nhân vật, cuộc sống trên đồng quê với những con người đa hình, đa vẻ đã tô điểm thêm cho bức họa làng quê thêm đa sắc, đa màu, như chuyện của sư Thiều, chuyện của ông giáo Quỳ, chuyện của chú Phụng… chuyện của những lao động nghèo, bình dị tuy tư tưởng và lập trường hoàn toàn khác nhau. Chuyện tuy có kết thúc buồn, mang cho độc giả một cảm giác miên man, nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa về cảnh – người – tâm tư của những con người nặng tình với làng cùng tác giảSách cùng chủ đềXem nhiều nhất ngàyXem nhiều nhất tuầnXem nhiều nhất tháng
Thương Nhớ Đồng Quê GIỚI THIỆU CHUNG Tác giả Nguyễn Huy Thiệp Thể loại Podcast Nguồn Sưa tầm Trạng thái Hoàn thành NỘI DUNG PODCAST “Cánh đồng rộng quá… Anh có biết cánh đồng bắt đầu từ đâu không?” “Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi Trong máu thịt tôi đã có cánh đồng …Tôi làm sao quên được nơi mẹ sinh ra tôi Mẹ đã buộc cuống rốn cho tôi bằng sợi chỉ Tắm gội cho tôi bằng nước ao đầm trước…” THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ – truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được viết vào năm 1992 và chuyển thể thành phim vài năm sau đó. Đúng như tên tác phẩm, bối cảnh của truyện là những hình ảnh bình dị, mộc mạc về làng quê trong suy nghĩ, trong tự sự của chàng trai 17 tuổi – Nhâm. Không dừng lại ở việc tả cảnh, tác giả còn đi sâu hơn vào đời sống của từng nhân vật, cuộc sống trên đồng quê với những con người đa hình, đa vẻ đã tô điểm thêm cho bức họa làng quê thêm đa sắc, đa màu, như chuyện của sư Thiều, chuyện của ông giáo Quỳ, chuyện của chú Phụng… chuyện của những lao động nghèo, bình dị tuy tư tưởng và lập trường hoàn toàn khác nhau. cập nhật audio truyện mới và hot nhất hiện nay. Các bạn muốn nghe truyện gì tiếp theo 🤔? Hãy đánh giá 5* và để lại tên truyện trong comment cho chúng tớ biết nhé! ^^ Mời các bạn nghe audio truyện full được sưu tầm bởi ️️ Truyện đã được up hoàn chỉnh. Chúc các bạn nghe truyện vui vẻ. 💛🧡 Cảm ơn các bạn đã lắng nghe và ủng hộ chúng tôi 🧡💛 📧 Email góp ý info 💌 Facebook
truyện thương nhớ đồng quê